Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương năm: Lợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo

14 Tháng Hai 201100:00(Xem: 7259)
Chương năm: Lợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo

NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO
 Tác giả: Lâm Thế Mẫn - Việt dịch: Thích Chân Tính
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO Ha Noi - 2001

CHƯƠNG NĂM
LỢI ÍCH TỐT ĐẸP CỦA VIỆC TÍN NGƯỠNG PHẬT GIÁO

Sự trọng yếu của tôn giáo đối với nhân sinh, trong đó đạo lýrõ ràng dễ thấy nhất, nó là một khâu rất trọng yếu trong sinh hoạt tinh thần của nhân loại, đã cổ lệ và làm phấn chấn con người có được sức mạnh không thể sánh. Đồng thời tôn giáo có thể an định xã hội, tịnh hóa lòng người, khiến cho người ta có đầy đủ tín tâmhy vọng ở tương lai, giúp cho người ta có được sinh hoạt hợp lý, cao thượng.

Nói chung, tôn giáo đối với người bi quan, có tác dụng an ủi vỗ về; đối với người làm càn làm bậy, có hiệu lực cảnh cáo răn đe; đối với người tốt lành cũng có thể giúp họ hăng hái làm điều thiện.

Điều mà chương này cần thảo luậnlợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo, nói thế không phải chê bai tín ngưỡng tôn giáo khác là không có lợi ích tốt đẹp. Tiến sĩ Trương Trừng Cơ trong cuốn “Thế nào là Phật pháp” có nói : “Phật pháp không chê bai tôn giáo khác, Phật pháp cho rằng căn khí chúng sinh khác nhau thì phương pháp dạy đạo cũng không thể chấp nhất”. Nhân đấy các tôn giáotriết học đều có những giá trịcông dụng của nó. Các tôn giáo, ở trong khoảng một thời gian không gian nào đó, đối với một loại chúng sinh nào đó, có tác dụng giáo hóalợi ích thiết thực.

Song giữa các tôn giáo, do trí tuệ và hoài bão của vị giáo chủ khác nhau, giáo lý nói ra sâu cạn cũng bất đồng, phương thức, tinh thần giáo dục cũng có khác. Nhân đó mỗi một tôn giáo, tuy nhiều ít đều có thể đem lại cho người tín ngưỡng những điều lợi ích tốt đẹp, nhưng chỗ rốt ráo thì không giống nhau. Tiểu học và Đại học tuy đều là trường học, đều dạy đạo lý liên quan đến làm người, làm việc, và ngày sau có kỹ năng đứng vững trong xã hội, song vào Tiểu học và vào Đại học sở học và sở đắc có giống nhau không ?

Dưới đây là thuyết minh điều lợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo.

1/ Phật giáo có thể khiến cho người ta đạt được nhân sinh quan chính xác

Phật giáo phân tích rõ ràng vấn đề vũ trụ nhân sinh, mục đích ở chỗ giúp cho người ta đối với nhân sinh có được nhận thức chính xác.

Thông thường, người ta có cái nhìn đối với đời sống không ngoài hai loại bi quanlạc quan :

1- Bi quan : Cho rằng đời người ngắn ngủi tạm bợ, sinh mạng giả dối, người ta sống chỉ đợi một ngày nào đó sẽ chết, do đó mà cả ngày vẻ mặt u sầu, ủ rũ.

2- Lạc quan : Loại người này không phải cả ngày tươi vui thật sự, bởi vì sinh hoạt của họ không có mục đíchý nghĩa. Họ chỉ ôm ấp quan niệm “vui chơi theo thời”, cuồng nhiệt vui thú theo dục lạc, nhằm thỏa mãn cảm giác của mình. Ý nghĩa sinh mạng và mục đích đời sống là gì, họ không cần quan tâm, họ cũng không cần biết đến.

nhân sinh quan Phật giáo khẳng định không thuộc ở bi quan và cũng không thuộc ở lạc quan, chúng ta có thể miễn cưỡng gọi là “trung quan”.

Thế nào là “trung quan” ? Tức là không phải buồn than khóc lóc đời sống, cũng không phải buông thả sinh mạng một cách ngớ ngẩn. Trung quan chính là dùng con mắt trí tuệ, quét sạch hết thảy mọi nghi ngờ, sầu muộnhiểu lầm về nhân sinh. Nhận thức một cách chính xác thực tướng của nhân sinh, nắm chắc phương hướng của nhân sinh.

Có người hoài nghi cho Phật giáobi quan, bởi vì đã đề xướng “khổ, không, vô ngã”. Cho rằng nhân sinh đầy dẫy khổ não, cho rằng thế giới trước mắt đều là nhân duyên tạm thời tụ hội mà thành, không có một thứ gì là chân thật, vĩnh hằng cả.

Thật ra Phật giáo chỉ là không “giấu bệnh tránh thuốc” mà thôi, chẳng qua là nói thật chứ không phải là bi quan. Bạn nhìn thử xem nhân sinh chẳng phải là đầy dẫy khổ não sao ? Bạn hãy xem kỹ thế giới này có chân thật, vĩnh hằng hay không ?

Phật giáo không phải là một loại tôn giáo không có tinh thần trách nhiệm. Đầu tiên Phật giáo muốn chúng ta nhận thức nhân sinh ấy là thứ nhân sinh khổ não. Sau đó tiến thêm một bước, phân tích những thứ khổ não ấy của nhân sinh, đều là do vô tri tham dục của chính bản thân con người gây ra và mọi người đều có thể tự mình khắc phục những thứ khổ não ấy. Sau cùng chỉ ra con đường hạnh phúc của nhân sinh, mong muốn chúng ta phải tiết chế dục vọng của mình, vì người khác mà phục vụ. Phật giáo tin chắc rằng : Mình muốn an lạc thì nhất định không thể thiết lập sự an lạc đó trên đau khổ của kẻ khác. Chỉ khi nào toàn thể chúng sinh đều được hạnh phúc an lạc, cá nhân mình mới có hạnh phúc, an lạc chân chính.

Phật giáo cho rằng công danh lợi lộc chỉ là mây khói bay qua mắt, vì sinh ra không đem gì theo, chết rồi cũng không mang gì đi. Do đó khuyên người ta không nên tham luyến quá mức, mong cầu quá mức. Ngược lại còn khuyên người phải biết bố thí, tu phước tu huệ, tránh xa danh lợi. Nhiều của cải cũng không thể tiêu biểu cho sự tốt đẹp về tinh thần của một cá nhân, chỉ có tu dưỡng phẩm chất đạo đức, tịnh hóa tâm linh, mới có thể giúp cho cuộc sống được an vui hạnh phúc.

2/ Phật giáo có thể khiến cho người ta tích cực hướng thượng

Sau khi Phật giáo “phủ định” tất cả, khiến cho người ta không còn tham luyến, truy cầu một cách mê muội nữa. Có như thế mới có thể “tích cực” vì nhân quầnphục vụ, lại còn khẳng định giá trị của cuộc sống và ý nghĩa của sinh mạng.

Phật giáo nói thân thể của con người là “không”, “giả’, mục đích ở chỗ khuyên người không nên “nơi nơi vì ta”, mà phải “ta vì mọi người”. Bởi vì “ta” đã là “không” là “giả” thì công danh lợi lộc có gì là thật đâu ?

Phật giáo lại cho rằng chúng sinhmột thể, vui buồn có nhau, tiểu ngã sinh hoạt trong đại ngã. Do đó cần phải hy sinh tiểu ngã, hoàn thành đại ngã, chẳng những không nên tự tư tự lợi, ngược lại còn phải có tinh thần từ bi giúp người.

Phật giáo không đồng ý về việc vận mạng thao túng trong tay của thần hoặc người khác, tự mình làm tự mình gánh chịu. Do đó mọi người phải chịu đựng nhẫn nại, nỗ lực phấn đấu, muốn ngày mai tươi sáng thì ngày nay phải cống hiến. Nếu không chịu cày cấy khổ nhọc thì làm sao thu hoạch kết quả tốt cho được ?

Phật giáo khuyên người nên “thiểu dục tri túc”, mà không muốn người ta phải trốn tránh trách nhiệm. Phật giáo muốn người ta “vai thép gánh đạo nghĩa” chứ không nên chỉ lo cho bản thân mình. Cái gọi là “chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”, “ta không vào địa ngục, thì ai vào ?” đã chứng minh sự tốt đẹp nhất tinh thần cứu nhân độ thế của Phật giáo.

Giới luật của Phật giáo, đối với hành vi của con người không phải là trói buộc cứng nhắc, mà là cổ vũ sinh động. Về phương diện tiêu cực có thể dừng ác phòng ngừa tội lỗi, về phương diện tích cực có thể khuyến khích cứu nhân độ thế. Chẳng hạn như giới “không sát sinh”, mục đíchtinh thần chân chính của nó, không phải ở chỗ bản thân mình không giết mà còn phải khuyên người khác giữ giới sát nữa. Một người lập chí học Bồ tát đạo, tự mình sát sinh vốn là phá giới, nếu thấy người sắp chết mà không cứu cũng phạm giới. Những giới luật khác cũng như vậy, không phải chỉ tự mình không nên “trộm cắp”, “nói dối” mà còn phải khuyên người không nên trộm cắp, nói dối, hết lòng khuyên bảo người cải tà quy chính.

Như thế, tâm lý tự tư “mỗi người tự quét dọn tuyết ở trước nhà mình” sẽ không còn chỗ đứng. Mọi người đều sốt sắng việc công, chăm lo việc nghĩa, tốt đạo đẹp đời, “thực hành đại đạo, thiên hạ là việc công”. Có như thế mới xứng đáng là người tràn đầy nhân ái, luôn tích cực hướng thiện, hướng thượng.

3/ Phật giáo có thể tịnh hóa xã hội lòng người

Trong xã hội loài người vẫn thường xảy ra những chuyện trộm cướp, giết người, hiếp dâm, gian dối v.v… thật khủng khiếp. Ai lại không đau buồn lo lắng ?

Một tín đồ Phật giáo tối thiểu phải nghiêm túc giữ gìn năm điều giới luật cơ bản dưới đây :

1- Không sát sinh : Không tàn hại sinh linh.

2/ Không trộm cắp : Không lấy, không cướp đoạt tài sản của người khác.

3- Không tà dâm : Là quan hệ vợ chồng chính đáng, không ngoại tình hoặc xúc phạm tiết hạnh người khác phái.

4- Không vọng ngữ : Nói lời chân thật, không hư dối, không nói láo.

5- Không uống rượu : Rượu có thể làm loạn tính, khiến cho người ta mất hết lý trí, do đó cần phải cấm tuyệt (chỉ khi có bệnh cần rượu pha thuốc thì mới tạm thời được uống).

Các bạn học hãy suy nghĩ thử xem, năm giới này có trùng khớp với nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Nho gia đề xướng không ? Như nhân (không sát sinh), nghĩa (không trộm cắp), lễ (không tà dâm), trí (không uống rượu), tín (không nói dối).

Nghiêm thủ năm giớicăn bản của việc làm người, vi phạm năm giới đối với xã hội cũng không thể có chỗ đứng, đồng thời còn bị pháp luật trừng trị, giam cầm tù đày nữa. Phật giáo cho rằng muốn làm “người” thì không thể không giữ ngũ giới, nếu vi phạm thì đời sau không thể được thân người trở lại, mà còn phải đọa vào ba đường ác : Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh (ba loại báo ứng của chúng sinh đó đều là thống khổ không chịu được, do đó gọi là đường ác).

Chúng ta không cần phải để ý đến đời sau như thế nào, chỉ xem việc trước mắt cũng đủ. Người ta không sát sinh thì xã hội sẽ không có án giết người; không trộm cắp thì sẽ không có ăn cắp vặt, cướp đoạt của người; không tà dâm thì không có chuyện ngoại tình, phá hoại luân lý gia đình; không vọng ngữ thì không có việc dối trá lẫn nhau; không uống rượu, thì thân tâm an ổn, đầu óc sáng suốt, không phải vì một lúc say sưa mà hại cả mình lẫn người. 

Một xã hội như thế không phải là xã hội yên tĩnh, an lạc sao ? Do đó tôi cho rằng Phật giáocông dụng tịnh hóa xã hội lòng người.

4/ Phật giáo có thể khiến cho người ta đạt được an lạc chân chính

Người ta muốn có được an lạc chân chính, đại khái cần phải có đầy đủ các yêu cầu dưới đây :

1- Tâm hồn bình tĩnh, không sinh phiền não.

2- Đối với khổ nạn trước mắt, tùy hoàn cảnhgiải quyết, không oán trời trách người.

3- Đối với các vấn đề vũ trụ, nhân sinh, có thể giải đáp một cách hợp lý.

4- Đối với vị lai, có thể được đáp án thỏa đáng.

5- Tiền đồ, vận mạng, chỗ về của mình, cho đến thành bại, khổ vui không phải bị thao túng trong tay kẻ khác.

Tôi nghĩ Phật giáo có thể đáp ứng hoàn toàn yêu cầu ấy của nhân loại vì :

a- Phật giáo khuyên người nên biết đủ thường vui, phải học tập thiền định, lạc quan tiến thủ, tâm ý tự nhiên bình tĩnh thì sẽ không sinh phiền não.

b- Phật giáo cho rằng sự việc nhãn tiền không như ý, đều là kết quả của nhân mà mình đã làm trước đây, cho nên cần phải dũng mãnh nhẫn nại, dám làm dám chịu, không nên oán trời trách người.

c- Kinh điển của Phật giáo không phải ở chỗ ca ngợi quyền uytài năng của Phật, mà là hoàn toàn giải thích triệt để vấn đề cơ bản của vũ trụ nhân sinh, có thể giúp cho người ta đạt được giải đáp hợp lý. Cho nên La Tố, nhà triết học Anh quốc đã nói : “Tôn giáo trên thế giới mà tôi tán thành nhất chính là Phật giáo”. Tôn Trung Sơn nói : “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học”. Khương Hữu Vi nói : “Phật học rộng lớn tinh vi… tuy có triết học của bậc thánh cũng không ứng phó kịp. Giáo lý ấy hàm nghĩa rất sâu xa”. Chương Thái Viêm nói : “Lý luận của Phật giáo khiến cho người thượng trí không thể không tin”. Lương Khải Siêu nói : “Tín ngưỡng Phật giáo là trí tín chứ không phải là mê tín”.

d- Trong kinh Phật có nói : “Phật vì một nhân duyên lớn xuất hiện ở nơi đời”. “Nhân duyên” lớn ấy (tức là mục đích của Phật đến thế gian) là gì ? Chính là vì giúp chúng sinh chuyển mê thành ngộ, từ trong khổ nạngiải thoát, hưởng sự an vui và tự do mãi mãi.

e- Phật giáo cho rằng con người chính là loài hiên ngang khí phách, trên con người không có thần nào có thể thao túng sự sống chết, thành bại, họa phước của chúng ta. Con người là chủ nhân của chính mình, chủ tể của chính mình, chỉ cần tự mình phấn đấu nỗ lực, nhất định sẽ có ngày vinh quang tươi sáng.

Do đó tôi cho rằng tín ngưỡng Phật giáothể đạt đến an lạc chân chính.

5/ Phật là bậc Đạo sư rất hiền từ của nhân loại

Đức Thích Ca Mâu Ni sinh tại nhân gian, là thái tử con vua Tịnh Phạn, đã lìa bỏ công danh phú quý, là một người có đầy đủ lòng từ bi và trí tuệ rộng lớn. Vì nhân loại chưa giải thoát được sinh lão bệnh tử, nên Ngài ăn không ngon, ngủ không yên, phải xuất gia tìm đạo. Sau khi đắc đạo, Ngài thuyết pháp 49 năm, sớm tối truyền bá không mệt mỏi, lưu lại rất nhiều chân lý và lời dạy quý báu, là một ngọn đèn sáng bất diệt của nhân sinh tăm tối, là chiếc thuyền từ không chìm trong biển khổ mênh mông đầy sóng gió. Ai có thể bi tâm như Phật với lời thệ nguyện : “Ta không vào địa ngục thì ai vào ?”.

Phật không bao giờ nổi giận, hoặc xử phạt đệ tử, tuyệt đối không tìm đâu thấy Phật tức giận dùng tai họa, tật dịch để xử phạt loài người.

Phật đối với đệ tử lúc nào cũng hòa ái tươi vui, tha thiết dạy bảo, dù già, trẻ, giàu, nghèo, quý, tiện, cho đến tất cả chúng sinh trong vũ trụ Ngài đều rủ lòng thương chỉ giáo. Tùy theo căn cơ của chúng sinh mà Ngài nói pháp cho họ nghe.

Phật bình thường giáo hóa chúng sinh, lúc giải đáp nghi vấn cho đệ tử, Ngài áp dụng bốn loại phương pháp như sau : 1/ Vấn đề nào cần phải phúc đáp thẳng thắn, 2/ Vấn đề nào nên dùng phương pháp giải đáp phân tích, 3/ Lại có vấn đề nên lấy phản vấn làm phúc đáp, 4/ Cuối cùng, có một loại vấn đề cần phải gác lại. (Tức là tạm thời chưa giải đáp, bởi vì đối phương chưa có thể hiểu được đạo lý ấy, nói ra sẽ làm tăng thêm hoang mang và nghi hoặc cho họ. Như học sinh Tiểu học ngay cả đến số học cũng không hiểu mà hỏi về vi tích phân (toán học) thì thầy giáo làm sao có thể giải đáp cho chúng hiểu được ?).

Phương thức giải đáp vấn đề như thế đó, chính là ứng cơ thuyết pháp.

Phật luôn luôn dùng tâm ái và tâm nhẫn để chỉ dạy đệ tử. Ngài không cho rằng có người ngu đần đến nỗi không thể giáo dục, có người hung ác đến nỗi không thể hối ngộ.

Một đời của Phật cống hiến trí tuệtừ ái của mình, nói ra những chân lý vĩ đại, dạy đạo vô số chúng sinh, nhưng Ngài không tự xưng mình là “giáo chủ” hoặc “chúa tể”. Ngài cho rằng mình đến nhân gian, chỉ là trách nhiệm thừa tiếp người trước, hướng dẫn kẻ sau - phát dương chân lý mà các Đức Phật thời quá khứ đã phát hiện, chỉ dạy cho người biết sau, giác sau.

Bản thân Ngài là Phật, mà Phật tin chắc rằng chúng sinh ở trong vũ trụ, xuyên qua sự nỗ lực và ma sát của bản thân họ, sẽ đạt đến nhân cách vĩ đại, trí tuệ sáng suốt giống như bản thân Ngài.

Ngày nay các bạn đồng học vẫn đọc sách cầu học, nhân đó gọi là học sinh, là chúng sinh biết sau giác sau. Song chỉ cần nỗ lực, một ngày nào đó các bạn cũng có thể học được các tri thức và kỹ năng, cũng ngang bằng với các thầy dạy của các bạn hiện nay, có thể trở thành thầy giáo của người, kế tục sự nghiệp giáo dục, cống hiến cả cuộc đời của mình cho hậu sinh.

Phật với chúng sinhbình đẳng, mỗi một chúng sinh là Phật ở vị lai. Giữa Phật và chúng sinh không phải là mối quan hệ “chủ nhân và nô lệ”, mà chỉ là một loại quan hệ “thầy trò” tạm thời mà thôi.

Các bạn học thân mến ! Lúc mê là chúng sinh, một khi đã khai ngộ thì là Phật với đầy đủ tri kiến chân chính.

Nản lòng, nhụt chí cũng như căn nhà tối tăm đã trải qua thời gian mười năm, chỉ cần đốt lên một ngọn đèn thì có thể xua đuổi bóng tối hàng chục năm, đem lại ánh sáng đầy nhà.

Các bạn đọc thân mến ! Hãy mau thắp lên ngọn đèn bất diệt ở trong tâm của bạn, ánh sáng sẽ ở chung quanh bạn, hạnh phúc sẽ ở bên thân của bạn.

Những đạo lý này chính là do Đức Phật cao quý nói với chúng ta, Ngài không phải là một vị thầy hiền từ nhân ái sao ?

6/ Phật giáo có thể bồi dưỡng nhân cách tự tôn tự tin và độc lập tự chủ

Từ lúc tu hành đến khi thành chính quả, Đức Phật phải ra sức nỗ lực bằng chính bản thân mình, không ai có thể thay thế giúp sức cho Ngài cả.

Phật giáo khẳng định mỗi cá nhân đều là chủ nhân của chính mình, không phải là nô bộc của người khác, không cần phải cầu xin thần hoặc Phật, chỉ cần nỗ lực thực hành theo đạo lý Ngài đã dạy thì có thể thành Phật. Điều này đã cổ vũ lòng tự tin và tự tôn của chúng ta.

Phật giáo cho rằng mỗi người đều có đầy đủ bản tính thành Phật, “trên trời dưới trời chỉ có ta là cao quý”, không ai có thể điều khiển loài người, có thể nô dịch loài người, sự thành bại hạnh phúc của con người hoàn toànbản thân họ. Mà việc tu hành chứng quả là do tự ta hoàn thành nhân cách vĩ đại - thành Phật. Đó là nỗ lực của chính bản thân nhân loại, không phải do ân điển của thần, cũng không phải sự cứu bạt của Phật (mà là chúng sinh tự cứu lấy mình).

Phật giáo cho rằng, con người là vì “mình” mà sống, vì “hết thảy chúng sinh” mà sống (làm cho chúng sinh trong vũ trụ đều được hạnh phúc, an lạc). Đồng thời thành quả của mọi nỗ lực là do tự mình phấn đấu mà có, vinh quang quy về bản thân nhân loại, nếu thất bại đó là nỗ lực của mình không đủ, cần phải cố gắng thêm nữa, nhắm thẳng mục tiêutiến tới.

Tư tưởng này của Phật giáo, nhắc nhở loài người đối với hành vi của mình phải tự mình gánh lấy trách nhiệm không thể quy tội cho trời hoặc oán trách người khác.

Vì thế người ta mới có quyền quyết định vận mạng và tiền đồ của mình, người ta mới có nhân cách độc lập tự chủ (không phải bị lệ thuộc nơi thần, bị thần thao túng, khống chế). Có nhân cách độc lập tự chủ rồi, mới có thể nói đến tự tôn và tự tin.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19905)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20971)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19341)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40620)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21310)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41143)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24155)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23090)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17883)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 27032)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20783)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33690)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 21091)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 29018)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12727)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25390)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19180)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17553)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25860)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19052)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 19029)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29089)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18944)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33392)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38456)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31305)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18269)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24550)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19477)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17946)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23129)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18054)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32283)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17417)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17451)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16112)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18596)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20808)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18117)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20153)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14936)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20967)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15091)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15802)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12958)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14530)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14951)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29474)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12791)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14560)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant