Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương năm: Lợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo

14 Tháng Hai 201100:00(Xem: 7254)
Chương năm: Lợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo

NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO
 Tác giả: Lâm Thế Mẫn - Việt dịch: Thích Chân Tính
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO Ha Noi - 2001

CHƯƠNG NĂM
LỢI ÍCH TỐT ĐẸP CỦA VIỆC TÍN NGƯỠNG PHẬT GIÁO

Sự trọng yếu của tôn giáo đối với nhân sinh, trong đó đạo lýrõ ràng dễ thấy nhất, nó là một khâu rất trọng yếu trong sinh hoạt tinh thần của nhân loại, đã cổ lệ và làm phấn chấn con người có được sức mạnh không thể sánh. Đồng thời tôn giáo có thể an định xã hội, tịnh hóa lòng người, khiến cho người ta có đầy đủ tín tâmhy vọng ở tương lai, giúp cho người ta có được sinh hoạt hợp lý, cao thượng.

Nói chung, tôn giáo đối với người bi quan, có tác dụng an ủi vỗ về; đối với người làm càn làm bậy, có hiệu lực cảnh cáo răn đe; đối với người tốt lành cũng có thể giúp họ hăng hái làm điều thiện.

Điều mà chương này cần thảo luậnlợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo, nói thế không phải chê bai tín ngưỡng tôn giáo khác là không có lợi ích tốt đẹp. Tiến sĩ Trương Trừng Cơ trong cuốn “Thế nào là Phật pháp” có nói : “Phật pháp không chê bai tôn giáo khác, Phật pháp cho rằng căn khí chúng sinh khác nhau thì phương pháp dạy đạo cũng không thể chấp nhất”. Nhân đấy các tôn giáotriết học đều có những giá trịcông dụng của nó. Các tôn giáo, ở trong khoảng một thời gian không gian nào đó, đối với một loại chúng sinh nào đó, có tác dụng giáo hóalợi ích thiết thực.

Song giữa các tôn giáo, do trí tuệ và hoài bão của vị giáo chủ khác nhau, giáo lý nói ra sâu cạn cũng bất đồng, phương thức, tinh thần giáo dục cũng có khác. Nhân đó mỗi một tôn giáo, tuy nhiều ít đều có thể đem lại cho người tín ngưỡng những điều lợi ích tốt đẹp, nhưng chỗ rốt ráo thì không giống nhau. Tiểu học và Đại học tuy đều là trường học, đều dạy đạo lý liên quan đến làm người, làm việc, và ngày sau có kỹ năng đứng vững trong xã hội, song vào Tiểu học và vào Đại học sở học và sở đắc có giống nhau không ?

Dưới đây là thuyết minh điều lợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo.

1/ Phật giáo có thể khiến cho người ta đạt được nhân sinh quan chính xác

Phật giáo phân tích rõ ràng vấn đề vũ trụ nhân sinh, mục đích ở chỗ giúp cho người ta đối với nhân sinh có được nhận thức chính xác.

Thông thường, người ta có cái nhìn đối với đời sống không ngoài hai loại bi quanlạc quan :

1- Bi quan : Cho rằng đời người ngắn ngủi tạm bợ, sinh mạng giả dối, người ta sống chỉ đợi một ngày nào đó sẽ chết, do đó mà cả ngày vẻ mặt u sầu, ủ rũ.

2- Lạc quan : Loại người này không phải cả ngày tươi vui thật sự, bởi vì sinh hoạt của họ không có mục đíchý nghĩa. Họ chỉ ôm ấp quan niệm “vui chơi theo thời”, cuồng nhiệt vui thú theo dục lạc, nhằm thỏa mãn cảm giác của mình. Ý nghĩa sinh mạng và mục đích đời sống là gì, họ không cần quan tâm, họ cũng không cần biết đến.

nhân sinh quan Phật giáo khẳng định không thuộc ở bi quan và cũng không thuộc ở lạc quan, chúng ta có thể miễn cưỡng gọi là “trung quan”.

Thế nào là “trung quan” ? Tức là không phải buồn than khóc lóc đời sống, cũng không phải buông thả sinh mạng một cách ngớ ngẩn. Trung quan chính là dùng con mắt trí tuệ, quét sạch hết thảy mọi nghi ngờ, sầu muộnhiểu lầm về nhân sinh. Nhận thức một cách chính xác thực tướng của nhân sinh, nắm chắc phương hướng của nhân sinh.

Có người hoài nghi cho Phật giáobi quan, bởi vì đã đề xướng “khổ, không, vô ngã”. Cho rằng nhân sinh đầy dẫy khổ não, cho rằng thế giới trước mắt đều là nhân duyên tạm thời tụ hội mà thành, không có một thứ gì là chân thật, vĩnh hằng cả.

Thật ra Phật giáo chỉ là không “giấu bệnh tránh thuốc” mà thôi, chẳng qua là nói thật chứ không phải là bi quan. Bạn nhìn thử xem nhân sinh chẳng phải là đầy dẫy khổ não sao ? Bạn hãy xem kỹ thế giới này có chân thật, vĩnh hằng hay không ?

Phật giáo không phải là một loại tôn giáo không có tinh thần trách nhiệm. Đầu tiên Phật giáo muốn chúng ta nhận thức nhân sinh ấy là thứ nhân sinh khổ não. Sau đó tiến thêm một bước, phân tích những thứ khổ não ấy của nhân sinh, đều là do vô tri tham dục của chính bản thân con người gây ra và mọi người đều có thể tự mình khắc phục những thứ khổ não ấy. Sau cùng chỉ ra con đường hạnh phúc của nhân sinh, mong muốn chúng ta phải tiết chế dục vọng của mình, vì người khác mà phục vụ. Phật giáo tin chắc rằng : Mình muốn an lạc thì nhất định không thể thiết lập sự an lạc đó trên đau khổ của kẻ khác. Chỉ khi nào toàn thể chúng sinh đều được hạnh phúc an lạc, cá nhân mình mới có hạnh phúc, an lạc chân chính.

Phật giáo cho rằng công danh lợi lộc chỉ là mây khói bay qua mắt, vì sinh ra không đem gì theo, chết rồi cũng không mang gì đi. Do đó khuyên người ta không nên tham luyến quá mức, mong cầu quá mức. Ngược lại còn khuyên người phải biết bố thí, tu phước tu huệ, tránh xa danh lợi. Nhiều của cải cũng không thể tiêu biểu cho sự tốt đẹp về tinh thần của một cá nhân, chỉ có tu dưỡng phẩm chất đạo đức, tịnh hóa tâm linh, mới có thể giúp cho cuộc sống được an vui hạnh phúc.

2/ Phật giáo có thể khiến cho người ta tích cực hướng thượng

Sau khi Phật giáo “phủ định” tất cả, khiến cho người ta không còn tham luyến, truy cầu một cách mê muội nữa. Có như thế mới có thể “tích cực” vì nhân quầnphục vụ, lại còn khẳng định giá trị của cuộc sống và ý nghĩa của sinh mạng.

Phật giáo nói thân thể của con người là “không”, “giả’, mục đích ở chỗ khuyên người không nên “nơi nơi vì ta”, mà phải “ta vì mọi người”. Bởi vì “ta” đã là “không” là “giả” thì công danh lợi lộc có gì là thật đâu ?

Phật giáo lại cho rằng chúng sinhmột thể, vui buồn có nhau, tiểu ngã sinh hoạt trong đại ngã. Do đó cần phải hy sinh tiểu ngã, hoàn thành đại ngã, chẳng những không nên tự tư tự lợi, ngược lại còn phải có tinh thần từ bi giúp người.

Phật giáo không đồng ý về việc vận mạng thao túng trong tay của thần hoặc người khác, tự mình làm tự mình gánh chịu. Do đó mọi người phải chịu đựng nhẫn nại, nỗ lực phấn đấu, muốn ngày mai tươi sáng thì ngày nay phải cống hiến. Nếu không chịu cày cấy khổ nhọc thì làm sao thu hoạch kết quả tốt cho được ?

Phật giáo khuyên người nên “thiểu dục tri túc”, mà không muốn người ta phải trốn tránh trách nhiệm. Phật giáo muốn người ta “vai thép gánh đạo nghĩa” chứ không nên chỉ lo cho bản thân mình. Cái gọi là “chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”, “ta không vào địa ngục, thì ai vào ?” đã chứng minh sự tốt đẹp nhất tinh thần cứu nhân độ thế của Phật giáo.

Giới luật của Phật giáo, đối với hành vi của con người không phải là trói buộc cứng nhắc, mà là cổ vũ sinh động. Về phương diện tiêu cực có thể dừng ác phòng ngừa tội lỗi, về phương diện tích cực có thể khuyến khích cứu nhân độ thế. Chẳng hạn như giới “không sát sinh”, mục đíchtinh thần chân chính của nó, không phải ở chỗ bản thân mình không giết mà còn phải khuyên người khác giữ giới sát nữa. Một người lập chí học Bồ tát đạo, tự mình sát sinh vốn là phá giới, nếu thấy người sắp chết mà không cứu cũng phạm giới. Những giới luật khác cũng như vậy, không phải chỉ tự mình không nên “trộm cắp”, “nói dối” mà còn phải khuyên người không nên trộm cắp, nói dối, hết lòng khuyên bảo người cải tà quy chính.

Như thế, tâm lý tự tư “mỗi người tự quét dọn tuyết ở trước nhà mình” sẽ không còn chỗ đứng. Mọi người đều sốt sắng việc công, chăm lo việc nghĩa, tốt đạo đẹp đời, “thực hành đại đạo, thiên hạ là việc công”. Có như thế mới xứng đáng là người tràn đầy nhân ái, luôn tích cực hướng thiện, hướng thượng.

3/ Phật giáo có thể tịnh hóa xã hội lòng người

Trong xã hội loài người vẫn thường xảy ra những chuyện trộm cướp, giết người, hiếp dâm, gian dối v.v… thật khủng khiếp. Ai lại không đau buồn lo lắng ?

Một tín đồ Phật giáo tối thiểu phải nghiêm túc giữ gìn năm điều giới luật cơ bản dưới đây :

1- Không sát sinh : Không tàn hại sinh linh.

2/ Không trộm cắp : Không lấy, không cướp đoạt tài sản của người khác.

3- Không tà dâm : Là quan hệ vợ chồng chính đáng, không ngoại tình hoặc xúc phạm tiết hạnh người khác phái.

4- Không vọng ngữ : Nói lời chân thật, không hư dối, không nói láo.

5- Không uống rượu : Rượu có thể làm loạn tính, khiến cho người ta mất hết lý trí, do đó cần phải cấm tuyệt (chỉ khi có bệnh cần rượu pha thuốc thì mới tạm thời được uống).

Các bạn học hãy suy nghĩ thử xem, năm giới này có trùng khớp với nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Nho gia đề xướng không ? Như nhân (không sát sinh), nghĩa (không trộm cắp), lễ (không tà dâm), trí (không uống rượu), tín (không nói dối).

Nghiêm thủ năm giớicăn bản của việc làm người, vi phạm năm giới đối với xã hội cũng không thể có chỗ đứng, đồng thời còn bị pháp luật trừng trị, giam cầm tù đày nữa. Phật giáo cho rằng muốn làm “người” thì không thể không giữ ngũ giới, nếu vi phạm thì đời sau không thể được thân người trở lại, mà còn phải đọa vào ba đường ác : Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh (ba loại báo ứng của chúng sinh đó đều là thống khổ không chịu được, do đó gọi là đường ác).

Chúng ta không cần phải để ý đến đời sau như thế nào, chỉ xem việc trước mắt cũng đủ. Người ta không sát sinh thì xã hội sẽ không có án giết người; không trộm cắp thì sẽ không có ăn cắp vặt, cướp đoạt của người; không tà dâm thì không có chuyện ngoại tình, phá hoại luân lý gia đình; không vọng ngữ thì không có việc dối trá lẫn nhau; không uống rượu, thì thân tâm an ổn, đầu óc sáng suốt, không phải vì một lúc say sưa mà hại cả mình lẫn người. 

Một xã hội như thế không phải là xã hội yên tĩnh, an lạc sao ? Do đó tôi cho rằng Phật giáocông dụng tịnh hóa xã hội lòng người.

4/ Phật giáo có thể khiến cho người ta đạt được an lạc chân chính

Người ta muốn có được an lạc chân chính, đại khái cần phải có đầy đủ các yêu cầu dưới đây :

1- Tâm hồn bình tĩnh, không sinh phiền não.

2- Đối với khổ nạn trước mắt, tùy hoàn cảnhgiải quyết, không oán trời trách người.

3- Đối với các vấn đề vũ trụ, nhân sinh, có thể giải đáp một cách hợp lý.

4- Đối với vị lai, có thể được đáp án thỏa đáng.

5- Tiền đồ, vận mạng, chỗ về của mình, cho đến thành bại, khổ vui không phải bị thao túng trong tay kẻ khác.

Tôi nghĩ Phật giáo có thể đáp ứng hoàn toàn yêu cầu ấy của nhân loại vì :

a- Phật giáo khuyên người nên biết đủ thường vui, phải học tập thiền định, lạc quan tiến thủ, tâm ý tự nhiên bình tĩnh thì sẽ không sinh phiền não.

b- Phật giáo cho rằng sự việc nhãn tiền không như ý, đều là kết quả của nhân mà mình đã làm trước đây, cho nên cần phải dũng mãnh nhẫn nại, dám làm dám chịu, không nên oán trời trách người.

c- Kinh điển của Phật giáo không phải ở chỗ ca ngợi quyền uytài năng của Phật, mà là hoàn toàn giải thích triệt để vấn đề cơ bản của vũ trụ nhân sinh, có thể giúp cho người ta đạt được giải đáp hợp lý. Cho nên La Tố, nhà triết học Anh quốc đã nói : “Tôn giáo trên thế giới mà tôi tán thành nhất chính là Phật giáo”. Tôn Trung Sơn nói : “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học”. Khương Hữu Vi nói : “Phật học rộng lớn tinh vi… tuy có triết học của bậc thánh cũng không ứng phó kịp. Giáo lý ấy hàm nghĩa rất sâu xa”. Chương Thái Viêm nói : “Lý luận của Phật giáo khiến cho người thượng trí không thể không tin”. Lương Khải Siêu nói : “Tín ngưỡng Phật giáo là trí tín chứ không phải là mê tín”.

d- Trong kinh Phật có nói : “Phật vì một nhân duyên lớn xuất hiện ở nơi đời”. “Nhân duyên” lớn ấy (tức là mục đích của Phật đến thế gian) là gì ? Chính là vì giúp chúng sinh chuyển mê thành ngộ, từ trong khổ nạngiải thoát, hưởng sự an vui và tự do mãi mãi.

e- Phật giáo cho rằng con người chính là loài hiên ngang khí phách, trên con người không có thần nào có thể thao túng sự sống chết, thành bại, họa phước của chúng ta. Con người là chủ nhân của chính mình, chủ tể của chính mình, chỉ cần tự mình phấn đấu nỗ lực, nhất định sẽ có ngày vinh quang tươi sáng.

Do đó tôi cho rằng tín ngưỡng Phật giáothể đạt đến an lạc chân chính.

5/ Phật là bậc Đạo sư rất hiền từ của nhân loại

Đức Thích Ca Mâu Ni sinh tại nhân gian, là thái tử con vua Tịnh Phạn, đã lìa bỏ công danh phú quý, là một người có đầy đủ lòng từ bi và trí tuệ rộng lớn. Vì nhân loại chưa giải thoát được sinh lão bệnh tử, nên Ngài ăn không ngon, ngủ không yên, phải xuất gia tìm đạo. Sau khi đắc đạo, Ngài thuyết pháp 49 năm, sớm tối truyền bá không mệt mỏi, lưu lại rất nhiều chân lý và lời dạy quý báu, là một ngọn đèn sáng bất diệt của nhân sinh tăm tối, là chiếc thuyền từ không chìm trong biển khổ mênh mông đầy sóng gió. Ai có thể bi tâm như Phật với lời thệ nguyện : “Ta không vào địa ngục thì ai vào ?”.

Phật không bao giờ nổi giận, hoặc xử phạt đệ tử, tuyệt đối không tìm đâu thấy Phật tức giận dùng tai họa, tật dịch để xử phạt loài người.

Phật đối với đệ tử lúc nào cũng hòa ái tươi vui, tha thiết dạy bảo, dù già, trẻ, giàu, nghèo, quý, tiện, cho đến tất cả chúng sinh trong vũ trụ Ngài đều rủ lòng thương chỉ giáo. Tùy theo căn cơ của chúng sinh mà Ngài nói pháp cho họ nghe.

Phật bình thường giáo hóa chúng sinh, lúc giải đáp nghi vấn cho đệ tử, Ngài áp dụng bốn loại phương pháp như sau : 1/ Vấn đề nào cần phải phúc đáp thẳng thắn, 2/ Vấn đề nào nên dùng phương pháp giải đáp phân tích, 3/ Lại có vấn đề nên lấy phản vấn làm phúc đáp, 4/ Cuối cùng, có một loại vấn đề cần phải gác lại. (Tức là tạm thời chưa giải đáp, bởi vì đối phương chưa có thể hiểu được đạo lý ấy, nói ra sẽ làm tăng thêm hoang mang và nghi hoặc cho họ. Như học sinh Tiểu học ngay cả đến số học cũng không hiểu mà hỏi về vi tích phân (toán học) thì thầy giáo làm sao có thể giải đáp cho chúng hiểu được ?).

Phương thức giải đáp vấn đề như thế đó, chính là ứng cơ thuyết pháp.

Phật luôn luôn dùng tâm ái và tâm nhẫn để chỉ dạy đệ tử. Ngài không cho rằng có người ngu đần đến nỗi không thể giáo dục, có người hung ác đến nỗi không thể hối ngộ.

Một đời của Phật cống hiến trí tuệtừ ái của mình, nói ra những chân lý vĩ đại, dạy đạo vô số chúng sinh, nhưng Ngài không tự xưng mình là “giáo chủ” hoặc “chúa tể”. Ngài cho rằng mình đến nhân gian, chỉ là trách nhiệm thừa tiếp người trước, hướng dẫn kẻ sau - phát dương chân lý mà các Đức Phật thời quá khứ đã phát hiện, chỉ dạy cho người biết sau, giác sau.

Bản thân Ngài là Phật, mà Phật tin chắc rằng chúng sinh ở trong vũ trụ, xuyên qua sự nỗ lực và ma sát của bản thân họ, sẽ đạt đến nhân cách vĩ đại, trí tuệ sáng suốt giống như bản thân Ngài.

Ngày nay các bạn đồng học vẫn đọc sách cầu học, nhân đó gọi là học sinh, là chúng sinh biết sau giác sau. Song chỉ cần nỗ lực, một ngày nào đó các bạn cũng có thể học được các tri thức và kỹ năng, cũng ngang bằng với các thầy dạy của các bạn hiện nay, có thể trở thành thầy giáo của người, kế tục sự nghiệp giáo dục, cống hiến cả cuộc đời của mình cho hậu sinh.

Phật với chúng sinhbình đẳng, mỗi một chúng sinh là Phật ở vị lai. Giữa Phật và chúng sinh không phải là mối quan hệ “chủ nhân và nô lệ”, mà chỉ là một loại quan hệ “thầy trò” tạm thời mà thôi.

Các bạn học thân mến ! Lúc mê là chúng sinh, một khi đã khai ngộ thì là Phật với đầy đủ tri kiến chân chính.

Nản lòng, nhụt chí cũng như căn nhà tối tăm đã trải qua thời gian mười năm, chỉ cần đốt lên một ngọn đèn thì có thể xua đuổi bóng tối hàng chục năm, đem lại ánh sáng đầy nhà.

Các bạn đọc thân mến ! Hãy mau thắp lên ngọn đèn bất diệt ở trong tâm của bạn, ánh sáng sẽ ở chung quanh bạn, hạnh phúc sẽ ở bên thân của bạn.

Những đạo lý này chính là do Đức Phật cao quý nói với chúng ta, Ngài không phải là một vị thầy hiền từ nhân ái sao ?

6/ Phật giáo có thể bồi dưỡng nhân cách tự tôn tự tin và độc lập tự chủ

Từ lúc tu hành đến khi thành chính quả, Đức Phật phải ra sức nỗ lực bằng chính bản thân mình, không ai có thể thay thế giúp sức cho Ngài cả.

Phật giáo khẳng định mỗi cá nhân đều là chủ nhân của chính mình, không phải là nô bộc của người khác, không cần phải cầu xin thần hoặc Phật, chỉ cần nỗ lực thực hành theo đạo lý Ngài đã dạy thì có thể thành Phật. Điều này đã cổ vũ lòng tự tin và tự tôn của chúng ta.

Phật giáo cho rằng mỗi người đều có đầy đủ bản tính thành Phật, “trên trời dưới trời chỉ có ta là cao quý”, không ai có thể điều khiển loài người, có thể nô dịch loài người, sự thành bại hạnh phúc của con người hoàn toànbản thân họ. Mà việc tu hành chứng quả là do tự ta hoàn thành nhân cách vĩ đại - thành Phật. Đó là nỗ lực của chính bản thân nhân loại, không phải do ân điển của thần, cũng không phải sự cứu bạt của Phật (mà là chúng sinh tự cứu lấy mình).

Phật giáo cho rằng, con người là vì “mình” mà sống, vì “hết thảy chúng sinh” mà sống (làm cho chúng sinh trong vũ trụ đều được hạnh phúc, an lạc). Đồng thời thành quả của mọi nỗ lực là do tự mình phấn đấu mà có, vinh quang quy về bản thân nhân loại, nếu thất bại đó là nỗ lực của mình không đủ, cần phải cố gắng thêm nữa, nhắm thẳng mục tiêutiến tới.

Tư tưởng này của Phật giáo, nhắc nhở loài người đối với hành vi của mình phải tự mình gánh lấy trách nhiệm không thể quy tội cho trời hoặc oán trách người khác.

Vì thế người ta mới có quyền quyết định vận mạng và tiền đồ của mình, người ta mới có nhân cách độc lập tự chủ (không phải bị lệ thuộc nơi thần, bị thần thao túng, khống chế). Có nhân cách độc lập tự chủ rồi, mới có thể nói đến tự tôn và tự tin.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34463)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16906)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 23032)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13090)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 22038)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22298)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14904)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23671)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24211)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23766)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17191)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19404)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27152)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14463)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13878)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22754)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14811)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17409)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12717)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13912)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10450)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14753)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17237)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12592)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12769)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10403)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28763)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10759)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11180)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16928)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15823)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13371)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12602)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11410)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13073)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19362)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12302)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28718)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10090)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21646)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12832)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17876)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26367)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11749)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10890)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22836)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12092)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10643)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11441)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11567)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant