Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Chương 8: Tu SĩThuật Sĩ

28 Tháng Hai 201100:00(Xem: 5809)
Chương 8: Tu Sĩ Và Thuật Sĩ

ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG 8: TU SĨTHUẬT SĨ

Tôi đã có dịp nhận định rằng các nhà tu sĩ ở Ấn Độ gồm nhiều thành phần vô cùng phức tạp. Trong số đó, phần nhiều là những người tốt và vô hại, mặc dầu họ có vẻ như rất nghèo nàn về phương diện quyền năng hay minh triết. Có một số gồm cả những người thất bại trên đường đời hoặc là những người lười biếng không muốn làm việc cực nhọc thể xác. Một trong những người ấy đã có lần đến gần tôi để xin tiền.

Đầu tóc rối nùi, thân thể bôi tro và bộ mặt bất hảo làm cho anh ta có một hình dáng bề ngoài ghê tởm. Tôi bèn cưỡng lại sự đường đột của anh ta để thử xem kết quả ra sao. Sự chống cự của tôi càng làm cho anh ta đeo lấy tôi như đỉa đói. Sau cùng, anh ta thử dùng một chiến thuật mới bằng cách gạ bán cho tôi xâu chuỗi bồ đề của anh ta. Đó là một vật trông rất dơ bẩn, nhưng có lẽ anh ta rất quí trọng, vì anh ta đòi bán với một giá rất cao. Tự nhiên là tôi từ chối và quay đi chỗ khác.


Một số ít những tu sĩ khác gồm những người tu khổ hạnh một cách vô lý và thường phô trương sự tu tập của mình trước công chúng. Có người đưa một cánh tay lên trời cho đến khi móng tay mọc dài ra đến năm tấc và xoắn tròn! Có người lại đứng một chân suốt nhiều năm ở một chỗ. Tôi không thể hiểu nổi là họ sẽ đạt được gì với những sự phô trương kém mỹ thuật đó, ngoài một vài đồng xu mà người ta ném vào cái bát ăn xin của họ.


Một số người khác dường như sử dụng tà thuật một cách công khai. Họ là những kiểu thầy phù thủy hạ cấp của Ấn Độhoạt động phần nhiều nơi các làng mạc thôn quê. Với một số tiền thù lao nhỏ, họ có thể giúp thân chủ làm hại kẻ thù, hoặc quyến rũ, dụ dỗ được một người đàn bà, hoặc giúp thân chủ thực hiện tham vọng một cách dễ dàng bằng cách hạ gục kẻ địch thủ với một vài ám tật hoặc một chứng bịnh kỳ lạ. Người ta vẫn thường nghe kể nhiều câu chuyện ám muội và lạ lùng về những tay phù thủy bàng môn tả đạo này. Đôi khi họ cũng tự xưng rằng họ là những người
yogi, hay thuật sĩ (fakir).

Còn lại một số rất ít gồm các tu sĩhọc thức, đôi khi là những người có trình độ văn hóa khá cao. Những người này thường đã bỏ ra nhiều năm tìm tòi học hỏi và khổ công tu luyện. Họ thực sự từ bỏ cuộc đời thế gian để bước vào con đường đi tìm chân lý. Họ có một niềm tin chắc chắn rằng đạt tới chân lý chính là đạt được hạnh phúc chân thật. Người ta có thể hoài nghi về tính chất hợp lý của vấn đề này, xem đó như là sự từ bỏ cuộc đời trần thế để chạy theo một viễn ảnh mơ hồ không có gì thiết thực, nhưng cái chí nguyện dốc lòng tầm đạo của những người này là hết sức thành thật, không ai có thể nghi ngờ hay chất vấn. Việc họ có thể đạt được chân lýgiải thoát hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như họ có đi đúng đường hay không và có gặp được bậc minh sư dẫn dắt hay không.


Một người Âu thường không có thời gian dành cho một cuộc tìm kiếm như thế. Người ta có thể viện ra một lý do rất thuyết phục để chấp nhận thái độ lãnh đạm chung của mọi người phương Tây về vấn đề tâm linh. Họ lập luận rằng, nếu điều đó là lầm lạc thì tất cả mọi cư dân trên lục địa Tây bán cầu đều lầm lạc cả chứ không riêng chỉ một người!


Trong thế hệ vật chất hiện tại, người ta xem việc đi tìm chân lý như một điều viển vông vô ích, nhưng họ không ngờ rằng họ đang phung phí rất nhiều năng lực để theo đuổi những điều mà xét cho cùng cũng chẳng mang lại ích lợi gì cả, vì tất cả những mục tiêu của họ đều chỉ là những sự vật phù du giả tạm.


Thuở xưa, từng có một người Tây phương đã đến viếng xứ Ấn Độ với một sứ mạng không giống như tôi, nhưng những nhân vật mà ông ta gặp ở xứ ấy đã làm cho ông ta bị đánh lạc hướng, đến nỗi ông ta suýt nữa đã quên hẳn mục đích đầu tiên của cuộc hành trình. Đó là Đại đế Alexander của Macedona vào thế kỷ 4 trước Công nguyên, người đã đem quân chinh phục các xứ phương Đông để nới rộng giang sơn bờ cõi. Vị đại đế này đã gần như trở thành một triết gia khi rời khỏi xứ này.


Tôi thường tự hỏi mình về những ý nghĩ của vua
Alexander khi ngồi trên chiến xa vượt qua các vùng núi non tuyết phủ và những bãi sa mạc hoang vu trên đường khải hoàn trở về xứ sở. Trong thời gian ở xứ Ấn Độ, vua Alexander đã từng bị chinh phục bởi các nhà hiền giảđạo sĩ yogi mà ngài gặp ở dọc đường. Ngài đã từng chất vấn và thảo luận sôi nổi với họ nhiều lần, suốt nhiều ngày liên tiếp về các vấn đề triết lý. Nếu ngài có dịp lưu lại và sống chung với họ thêm vài năm nữa, có lẽ ngài đã đưa thế giới Tây phương vào một con đường khác hẳn.

Trong số những nhà tu sĩ ở Ấn Độ ngày nay, vẫn còn có một vài người cố gắng hoạt động để giữ gìn cho lý tưởng đạo đức và ngọn lửa tâm linh của xứ sở họ vẫn luôn luôn bừng cháy. Một số những nhà tu giả danh có thể chỉ là những kẻ bịp bợm. Đó là hậu quả không sao tránh khỏi của một thời đại đã suy tàn. Nhưng ta đừng nên vì thế mà không biết đến một thiểu số còn lại là những bậc chân tu gương mẫu.


Như trên đã nói, giai cấp tu sĩ gồm nhiều thành phần vô cùng phức tạp, đến nỗi người ta không thể đưa ra một cách đánh giá chung, dầu là khen hay chê, cho tất cả bọn họ. Tôi đã hiểu thái độ cực đoan của một số sinh viên ở các đô thị khi nói rằng việc tận diệt thành phần
tu sĩ ăn bám” sẽ là một ân huệ tốt lành cho xứ Ấn Độ. Tôi cũng thông cảm không kém với những người đứng tuổiôn hòa hơn khi họ nói với tôi rằng ngày nào mà xã hội Ấn không còn nữa những bậc hiền triếtđạo sĩ chân tu, thì đó phải là ngày Ấn Độ bắt đầu suy tàn.

Vấn đề này có một tầm quan trọng riêng đối với xứ Ấn Độ, bởi vì nền kinh tế khó khăn ở đây buộc người ta phải xét lại giá trị tồn tại của mỗi thành phần trong xã hội. Người tu sĩ dường như không thực hiện được vai trò hữu ích nào cho xứ sở về phương diện kinh tế. Hàng trăm ngàn người được mệnh danh là tu sĩ nhưng thực chất chỉ là những kẻ dốt nát và thất nghiệp, đi lang thang khắp nơi qua những xóm làng và các thành phố trong những dịp hội hè, tế tự ở các đền chùa. Họ là những kẻ ăn mày xấc láo và lắm khi làm quấy rầy, gây phiền nhiễu cho người khác. Họ là một gánh nặng cho xã hội, vì họ không làm lợi ích cho đời để bù đắp lại những gì họ thụ hưởng.


Tuy nhiên, cũng có những tâm hồn cao quý đã từ bỏ cả địa vị cao sang hoặc bố thí hết tài sản của mình để dấn thân và dốc lòng tầm đạo. Họ là những tấm gương lành, tạo nguồn cảm hứng tốt đẹp và cao cả cho những người chung quanh ở bất cứ nơi nào có sự hiện diện của họ. Những cố gắng của họ để tự giácgiác ngộ kẻ khác hẳn phải có giá trị vượt xa so với mẩu bánh mì hay chén cơm lạt mà họ chấp nhận từ bá tánh.


lll


Màn đêm vừa buông xuống thành phố khi tôi đi dạo chơi quanh quẩn trên những đường phố nhỏ hẹp ở
Calcutta. Tôi vẫn còn nghĩ đến cảnh tượng rùng rợn mà tôi vừa nhìn thấy hồi sớm mai. Chuyến xe lửa của chúng tôi chạy qua một khu rừng nguy hiểm đầy những loài beo gấm. Hồi đêm khuya, xe lửa cán nhằm một con beo và khi đến ga Howrah, xác con beo bị nghiền nát và đẫm máu hãy còn dính chặt vào những bánh sắt, và người ta đã phải vất vả khó nhọc lắm mới gỡ ra được.

Chuyến xe lửa này đầy chật hành khách, cũng như hầu hết những chuyến xe lửa chạy đường xa ở Ấn Độ. Trong toa xe mà tôi đã may mắn tìm được một chỗ nằm còn trống, những bạn đồng hành của tôi gồm một nhóm khá phức tạp. Những người hành khách thảo luận công khai những vấn đề làm ăn kinh doanh của họ, nên chẳng bao lâu mọi người đều biết rõ họ là ai và từ đâu đến.


Trong nhóm người này, tôi nhận thấy có một người Hồi giáo mặc áo dài bằng lụa den, cài nút đến tận cổ và đội một cái mũ tròn cũng màu đen có thêu chỉ vàng rất đẹp. Có một người thổ dân
Mahratti miền Tây với cặp chân mày đậm, một người Marwari bịt khăn vàng thuộc thành phần lái buôn, làm nghề cầm đồ và cho vay bạc. Sau cùng là một anh chàng tác người vạm vỡ, thuộc dòng Bà-la-môn và làm nghề luật sư.

Tất cả đều là những người khá giả, có địa vị. Khi xe lửa ngừng ở mỗi nhà ga lớn, đều có những người gia nhân, tôi tớ đến săn đón và hỏi thăm những nhu cầu của chủ. Người Hồi giáo, sau khi đã ban cho tôi một cái nhìn im lặng bèn nhắm mắt lại và ngủ một giấc ngủ của người hiền, người thổ dân
Mahratti thì còn đang đàm luận sôi nổi với người lái buôn, người Bà-la-môn thì vừa mới lên xe và còn chưa ngồi yên chỗ. Về phần tôi, tôi đang có hứng muốn nói chuyện nhưng không tìm được người đối thoại. Hình như có một bức rào vô hình ngăn cách tôi với những người hành khách khác, cũng như có nhiều sự cách trở giữa Đông và Tây phương. Nhưng tôi liền cảm thấy thoải mái dễ chịu khi tôi người Bà-la-môn da mặt hồng hào lấy ra một quyển sách với một cái tựa lớn bằng tiếng Anh nằm ngang một cách ngạo nghễ ở ngoài bìa “Đời sống của Ramakrishna”.

Tôi bèn nắm ngay lấy cơ hội để vào đề câu chuyện. Phải chăng có người đã nói với tôi rằng
Ramakrishna là vị cuối cùng của những bậc siêu nhânẤn Độ mà người ta gọi là các đấng Rishi? Tôi bèn mở đề câu chuyện về điểm này với người đồng hành của tôi, và anh ta sẵn lòng tiếp chuyện. Chúng tôi thảo luận về các vấn đề triết lý, hoặc đề cập đến những khía cạnh thông thường của đời sốngẤn Độ.

Mỗi khi anh ta nói đến danh từ
Rishi thì giọng nói của anh ta xúc động với một lòng kính mến tôn sùng, và một tia sáng hiện rõ trong cặp mắt anh ta. Lòng sùng tín của anh ta đối với vị chân sư đã quá vãng này không còn phải nghi ngờ gì nữa.

Sau hai giờ đàm luận, tôi được biết rằng người
Bà-la-môn này có một người thầy, vị này lại là một trong những vị đệ tử còn sót lại của đức Ramakrishna. Vị tôn sư của anh ta nay đã gần tám mươi tuổi, và không sống ẩn dật ở một nơi hẻo lánh nào, mà ở ngay trung tâm khu bản xứ của thành phố Calcutta. Tôi xin địa chỉ của thầy anh ta thì anh ta liền cho ngay và nói:

– Ông không cần giới thiệu, ông chỉ cần bày tỏ ý muốn gặp người là đủ.


Chính vì lý do đó mà hôm nay tôi đến
Calcutta để đi tìm nhà của danh sư Mahasaya, đệ tử của đức Ramakrishna.

Đến nơi, tôi đi qua một cái sân rộng giáp mặt đường lộ, cuối sân có một cái thang đưa lên một ngôi nhà lớn và có vẻ cổ xưa. Một người trẻ tuổi đón tôi và mời tôi ngồi đợi trong một lát. Sau đó khoảng mười phút, tôi nghe có tiếng chân người bước vào phòng. Tôi không cần ai giới thiệu nữa, trước mặt tôi là một bậc kỳ lão đáng kính, hệt như những vị tộc trưởng được mô tả trong Kinh Thánh vào thời của giáo chủ
Moise.

Ngài hơi sói đầu, có một bộ râu dài đã bạc trắng, cốt cách nghiêm trang, đôi mắt có vẻ trầm tư, đôi vai hơi còng xuống vì gánh nặng của gần tám chục mùa đông đã qua: Người đó không ai khác hơn là vị danh
Mahasaya.

Ngài ngồi trên giường và quay mặt về phía tôi. Trước sự hiện diện nghiêm trang và đạo mạo của ngài, tôi nhận định ngay rằng đây không phải là nơi có thể nói ra những lời đùa cợt. Thậm chí, những lời biểu lộ sự hoài nghi hay châm biếm mà tôi thỉnh thoảng vẫn nói ra cũng hoàn toàn không thích hợp ở chốn này.


Bất cứ ai cũng có thể đọc được trên gương mặt và phong tư cốt cách của ngài một tâm hồn cao quý và một đức tin thuần khiết. Ngài nói với tôi bằng một giọng Anh ngữ lưu loát:


– Tôi rất vui được gặp ông ở đây.


Ngài bảo tôi đến gần và cùng ngồi trên giường với Ngài. Ngài cầm lấy bàn tay tôi trong một lúc. Tôi bèn tự giới thiệu và nói mục đích cuộc thăm viếng của tôi. Khi tôi nói xong, ngài lại siết chặt bàn tay tôi một cách thân mật và nói:


– Một sức mạnh thiêng liêng đã dìu dắt anh đến xứ Ấn Độ và giúp anh gặp gỡ những bậc hiền giả của xứ này. Việc ấy có một mục đích bí ẩn và tương lai sẽ tiết lộ cho anh biết. Anh hãy kiên nhẫn chờ đợi, rồi anh sẽ biết rõ.


– Xin ngài nói cho tôi biết vài điều về sư phụ của ngài, đức
Ramakrishna.

– A! Đó là vấn đề mà tôi thích nói đến nhất. Sư phụ tôi qua đời đã gần nửa thế kỷ nay, nhưng tôi không thể nào quên được ngài. Hình ảnh của ngài vẫn luôn sống độngbất diệt trong tim tôi. Hồi đó, tôi hãy còn là một thanh niên mới hai mươi bảy tuổi khi gặp ngài, và từ đó về sau tôi vẫn luôn sống bên cạnh ngài cho đến những năm cuối cùng trước khi ngài viên tịch. Kết quả là tôi đã trở nên một người hoàn toàn thay đổi. Thái độ của tôi đối với cuộc đời đã thay đổi hẳn, và là do ảnh hưởng của đức
Ramakrishna. Ngài tạo ra một sự xúc cảm tâm linh mãnh liệt cho tất cả những ai được gặp ngài. Ngài làm cho họ say mê, ngây ngất. Thậm chí những kẻ nặng mùi vật chấtý định đến để đùa cợt chế nhạo cũng đều phải im lặngngạc nhiên trước mặt ngài.

Tôi ngạc nhiên hỏi:


– Nhưng làm sao những người đó có thể cảm thấy kính phục trước vấn đề tâm linh, một vấn đề mà họ không hề tin tưởng?


Đức
Mahasaya mỉm cười đáp:

– Ta hãy đưa hạt tiêu cho hai người nếm thử. Một người biết rõ và đã quen mùi, còn người kia chưa biết hạt tiêu là gì. Tuy vậy, chẳng phải là cả hai người cùng nếm thấy một hương vị giống nhau đó sao? Chẳng phải là cả hai người sẽ cùng cảm nhận được vị cay của hạt tiêu trên đầu lưỡi đó sao? Cũng vậy, những người chủ trương chạy theo vật chất tuy không biết gì về sự cao cả tâm linh của đức
Ramakrishna, nhưng không phải vì thế mà họ không nhận biết được cái ảnh hưởng tâm linh cao cả và thuần khiết luôn tỏa ra quanh ngài.

– Như vậy, chắc chắn ngài phải là một bậc chân sư siêu việt!


– Đúng thế, và theo tôi thì ngài còn cao cả hơn tất cả những danh xưng mà người thế gian hiện có.
Ramakrishna là một người giản dị, mù chữ vì thất học. Ngài không viết được ngay cả tên mình, đừng nói chi đến việc viết một lá thư! Ngài có vẻ ngoài rất khiêm tốn, và còn khiêm tốn hơn nữa trong cung cách sinh hoạt hằng ngày. Tuy thế, ngài thâu phục được lòng tôn kính sùng mộ của cả những bậc thượng lưu trí thức đương thời. Những người này phải cúi đầu trước sức mạnh tâm linh cao cả của ngài, vì nó hiện hữu một cách cụ thể đến nỗi người ta có thể cảm nhận được rất rõ ràng. Ngài luôn dạy chúng ta rằng tiền tài, danh vọng, địa vị, quyền thế ở đời này chỉ là những thứ phù du giả tạm, không đáng kể so với đạo đức tâm linh, và chỉ là những trò hư ảo gạt gẫm giác quan con người.

Tôi luôn nhớ đến những ngày tuyệt diệu xưa kia khi được sống bên ngài. Hồi đó, ngài thường đắm chìm trong những cơn đại định thiêng liêng đến nỗi chúng tôi ngồi quanh ngài luôn cảm thấy dường như ngài là một vị thánh chứ không phải người thường. Một điều lạ là Ngài có khả năng đưa người đệ tử vào trạng thái nhập định chỉ với một cái sờ nhẹ bằng bàn tay. Trong trạng thái đó, họ có thể trực nhận những điều huyền diệu thâm sâu, bằng sự linh cảm trực tiếp. Để tôi nói anh nghe ngài đã ảnh hưởng đến tôi như thế nào. Tôi đã hấp thụ một nền học vấn theo giáo dục Âu Tây và lấy làm tự hào về kiến thức uyên bác của mình. Tôi đã từng là giáo sư đại học
Calcutta, dạy các môn văn chương, Anh ngữ, lịch sử, và kinh tế chính trị.

Hồi đó, đức
Ramakrishna ở tại đền Dakshineswar, cách thành phố Calcutta chừng vài dặm. Tại đó, vào một ngày mùa xuân mà tôi nhớ mãi, tôi đã gặp ngài. Ngài bày tỏ với những lời lẽ giản dị những ý tưởng tâm linh do kinh nghiệm trực tiếp của ngài. Tôi định thử bàn luận vài điều, nhưng tôi không nói được gì cả trước sự có mặt thiêng liêng của Ngài, vì nó ảnh hưởng đến tôi quá sâu sắc, không thể thốt ra thành lời. Từ đó trở đi, tôi đến viếng thăm ngài nhiều lần, và không thể nào rời xa ngài được nữa, cho đến một ngày kia, đức Ramakrishna nói đùa một cách hài hước rằng: “Có người đem cho con công ăn một liều thuốc phiện. Qua hôm sau, con công lại đến vào đúng giờ như hôm qua. Nó đã say mê mùi thuốc phiện và đến tìm một liều khác.

Quả đúng như vậy. Tôi chưa từng được hưởng những giờ phút an lạc tuyệt vời như khi tôi sống gần đức
Ramakrishna. Vì thế, không có gì lạ khi tôi thường xuyên trở lại với ngài. Và rồi tôi trở thành một trong những đệ tử thân cận của ngài, không còn là một khách viếng thăm qua đường. Một ngày kia, sư phụ bảo tôi: “Thầy nhận thấy con có những tính chất thích hợp của một người yogi. Con hãy làm việc hết lòngthế gian, nhưng đừng quên vẫn để tâm trí vào việc tu tập pháp môn này. Gia đình, cha mẹ, vợ con... con hãy sống tròn trách nhiệm với họ và nuôi dưỡng họ như những người thế gian gương mẫu. Nhưng hãy nhớ rằng, con rùa bơi lội trên mặt hồ mà tâm trí vẫn hướng về một nơi trên hồ mà nó đẻ trứng. Con hãy làm công việc ở thế gian, nhưng hãy đặt tâm trí vào việc tu tập.

Sau khi sư phụ từ trần, phần nhiều các đệ tử tình nguyện xuất gia, khoác áo vàng và đem truyền bá giáo lý của đức thầy ở khắp nơi trong xứ Ấn Độ. Riêng tôi, tôi không bỏ nghề nghiệp cũ và vẫn tiếp tục dạy học. Tuy nhiên, trong lòng tôi đã quyết định dứt bỏ cuộc đời trần thế, mặc dầu bề ngoài tôi vẫn sống như mọi người thế tục. Có nhiều đêm, tôi đi lang thang như kẻ không nhà, và ngủ trên các vỉa hè của thành phố, chung lộn với những kẻ ăn mày hành khất. Điều này đem đến cho tôi cái cảm giác, ít nhất là tạm thời, của một người cùng đinh không tài sản, không gia đình.
Ramakrishna không còn nữa, nhưng nếu anh đi châu du khắp xứ Ấn Độ, anh sẽ thấy những công trình cứu tế xã hội, từ thiện, y tế và giáo dục được thực hiện khắp nơi trong xứ dưới sự hướng dẫn của những vị đệ tử ngài thuở xưa, mà phần đông nay cũng đã qua đời. Điều mà anh không thấy một cách hiển hiện rõ ràng là những người đã hoàn toàn thay đổi tâm tính và xoay hướng cuộc đời của họ nhờ ảnh hưởng của đức tôn sư. Giáo lý của ngài đã được truyền khẩu qua các vị đệ tử. Những vị này về sau lại truyền bá rộng rãi trong dân chúng. Tôi đã được hân hạnh ghi chép những lời dạy của ngài bằng tiếng Bengal, những quyển sách giáo lý đó rất phổ thông khắp cả mọi gia đình trong tỉnh Bengale, và những bản dịch cũng được phát hành đi khắp các vùng ở Ấn Độ. Như thế, anh thấy ảnh hưởng của Ramakrishna đã phát triển rộng rãi như thế nào ngoài vòng các đệ tử trực tiếp của ngài.

Đức
Mahasaya ngừng nói và đắm chìm trong im lặng. Tôi nhìn kỹ gương mặt ngài và lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng ngài có những nét mặt và màu da không giống như của người Ấn Độ. Dung mạocốt cách của ngài thật cao quí tuyệt vời. Lòng hảo tâm, thiện chí, đạo đức, từ bithành thật của ngài biểu lộ ra một cách rõ ràng. Ngài có đức tự tin của một người đã từng sống một cuộc đời hoàn toàn tuân theo tiếng gọi của lương tri. Tôi chợt hỏi:

– Không biết đức
Ramakrishna sẽ nói thế nào với một người không thể chỉ sống bằng đức tin, mà còn đòi hỏi phải thỏa mãn lý trí?

– Ngài sẽ khuyên người ấy hãy quán xét nội tâm. Quán xét nội tâm là một phương pháp rất nhiệm mầu. Chính
Ramakrishna đã quán xét nội tâm để đạt được đức tintrí tuệ. Những người tự hào là có tri thức và đòi hỏi phải được thỏa mãn lý trí nhưng chưa có đức tin chỉ là vì họ chưa từng nhìn lại chính mình mà chỉ mải mê quan sát, phân tích ngoại cảnh. Một khi họ biết quay về quán xét nội tâm, họ sẽ thấy rằng trước đây họ thực sự chưa hiểu được gì cả. Nhờ đó mà họ phát khởi đạo tâm, và ngay sau đó sẽ có được đức tin chân chính.

– Nhưng nếu những người ấy không tin vào sự quán xét nội tâm, họ vẫn luôn cho rằng đã hiểu rõ được chính mình thì phải làm sao?


– Quán xét nội tâm là bước khởi đầu cơ bản nhất, là nền tảng cho bất cứ lý thuyết tâm linh nào. Nếu lý trí của anh ta thất bại ngay trong việc nhận biết tầm quan trọng của việc này thì mọi nỗ lực để cứu giúp một người như thế sẽ không bao giờ đạt tới kết quả.


– Nhưng nếu có người thực hành quán xét nội tâm mà không đạt được kết quả nào thì sao?


– Nếu vậy, người ấy nên thường tiếp xúc, gặp gỡ với những bậc chân tu đại đức đã từng có nhiều kinh nghiệm tâm linh. Sự tiếp xúc, gần gũi với những bậc ấy sẽ giúp anh ta khai mở được đạo tâm hãy còn tiềm tàng, và giúp anh ta nhận ra một điều là tất cả mọi người đều có một khởi điểm giống nhau trên đường tu tập. Những vị đã chứng ngộ hoặc có trình độ tu chứng cao có thể giúp chúng ta cảm nhận được sự giải thoát mà các ngài đã đạt được, và qua đó phát khởi niềm tin, hướng tâm theo về những mục đích cao cả hơn là cuộc sống thế tục. Trên hết mọi sự, các vị ấy là những tấm gương chói sáng về đạo đức, tinh thần, nên có thể làm phát khởi nơi chúng ta có một sự khao khát mãnh liệt muốn sống một đời sống tâm linh. Bởi vậy, sự tiếp xúc giao thiệp với những bậc thầy tâm linh là một bước đầu tiên rất quan trọng, và cũng thường được duy trì mãi cho đến giai đoạn thành tựu cuối cùng, như đức
Ramakrishna vẫn thường dạy.

Cứ như thế, chúng tôi đàm luận về những vấn đề đạo đức tâm linh trong suốt những ngày tôi còn lưu trú ở
Calcutta. Những buổi chiều thường luôn có khách đến viếng thăm cho đến khi gian phòng chứa đầy những người Ấn Độ, đa sốđệ tử của đức Mahasaya. Họ đến thăm đều đặn để lắng nghe một cách chú ý mỗi một lời dạy của thầy.

Không biết từ bao giờ, tôi cũng hòa nhập hoàn toàn với những người đệ tử ấy. Tôi đến thăm đức
Mahasaya đều đặn, tuy không hẳn là để nghe đức Mahasaya thuyết pháp, mà đôi khi chỉ để được trầm mình trong bầu không khí tâm linh xán lạn nhờ có sự hiện diện của ngài.

Bầu không khí chung quanh ngài thật là tốt lành, êm đẹp, dịu dàng và đầy thiện cảm. Ngài đã tự mình tìm thấy sự an lạc tuyệt đối trong tâm hồn và sự an lạc đó tỏa ra quanh ngài một cách cụ thể, khiến người ta có thể dễ dàng cảm nhận được.


Tôi thường không nhớ hết những lời nói ngài nói ra, nhưng tôi không thể quên cái phong độ hiền từ, bao dung rộng lượng của ngài. Trước kia, đức
Ramakrishna đã từng thu hút ngài như thế nào thì ngày nay có lẽ ngài cũng đang cuốn hút tôi giống như thế ấy, và tôi bắt đầu hiểu rằng nếu ngài có được một sức thu hút mãnh liệt như thế đối với tôi, thì vị tôn sư Ramakrishna của ngài chắc chắn phải có một ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng hơn gấp bội phần.

Đêm ấy là đêm cuối cùng tôi có mặt tại nhà đức
Mahasaya. Tôi quên cả thời gian khi được ngồi cạnh ngài trên chiếc giường gỗ. Giờ khắc trôi qua một cách mau chóng cho đến khi chúng tôi đã dứt câu chuyện. Ngài cầm tay dắt tôi ra đứng trên nóc bằng của ngôi nhà để hóng mát.

Dưới ánh trăng rằm trong sáng, tôi nhìn thấy những cây kiểng và những khóm hoa trồng trong chậu sắp thành hàng rất đẹp. Dưới chân chúng tôi đang tỏa chiếu muôn ngàn ánh đèn rực rỡ của thành phố
Calcutta. Đức Mahasaya đứng im lặng cầu nguyện trong một lúc. Sau đó, ngài quay lại đưa tay lên làm một cử chỉ ban ân huệ và đặt nhẹ bàn tay lên trán tôi. Tôi cúi đầu một cách khiêm tốn trước mặt ngài, tuy rằng tôi vẫn chưa dám nhận rằng mình có lòng tín ngưỡng tôn giáo.

Sau một lúc im lặng, ngài nói với một giọng nhẹ nhàng:


Sứ mạng của tôi đã gần chấm dứt. Thể xác này đã làm gần xong công việc của nó trong kiếp hiện tại. Anh hãy nhận lấy ân huệ của tôi trước khi tôi ra đi.


Ngài đã làm cho tôi xúc động một cách lạ lùng. Trên đường về, tôi đi bách bộ thẩn thơ qua nhiều đường phố và quên cả giấc ngủ. Tôi nghĩ rằng, nếu ở thế gian này có một người có thể làm cho tôi thoát khỏi sự hoài nghi và sống với một đức tin đơn giản, thì người đó chắc hẳn không ai khác hơn là vị danh
Mahasaya này.

lll


Bác sĩ
Bandyo, giám đốc một bệnh viện tại Calcutta, là một trong những chuyên gia phẫu thuật tài ba nhất ở thành phố này. Ông đã thực hiện được tất cả sáu ngàn cuộc phẫu thuật, và tôi đã có dịp thảo luận với ông một số kiến thức về khoa Hatha Yoga mà tôi đã thâu thập được.

Tầm kiến thức rộng rãi của ông ta về Y học và Cơ thể học đã giúp tôi hiểu thêm rất nhiều về vấn đề
Yoga trên bình diện khoa học. Bác sĩ nói:

– Tôi hầu như không biết gì về khoa
Yoga. Đó là một vấn đề mới lạ đối với tôi. Tôi cũng chưa từng gặp một người yogi nào, ngoài Narasingha Swami. Người này đến Calcutta cách đây không bao lâu.

Tôi hỏi thăm về người
yogi này, nhưng câu trả lời làm tôi thất vọng:

Narasingha Swami đã đến Calcutta, gây ra một luồng dư luận sôi nổi, rồi sau đó đi đâu không ai biết. Hình như anh ta đã sống ẩn dật trong vùng nội địa trước khi đến thành phố này, như vậy có lẽ anh ta đã trở về nơi am thất của anh ta.

– Xin bác sĩ cho biết việc gì đã xảy ra?


– Anh ta đã làm cho cả thành phố bàn tán về anh ta trong một thời gian ngắn. Người đã khám phá ra anh ta là bác sĩ
Neoghy, giáo sư hóa học tại trường Đại học Calcutta, khoảng hai tháng trước tại Madhupore. Bác sĩ Neoghy tận mắt nhìn thấy anh ta liếm vài giọt chất cường toan rất độc, và để than hồng vào miệng ngậm cho đến khi hòn than tắt hẳn. Bác sĩ lấy làm ngạc nhiên và mời người yogi này đến Calcutta. Trường Đại học của thành phố này liền tổ chức một buổi trình diễn trước công chúng để cho Narasingha biểu diễn năng lực của anh ta trước một cử tọa bao gồm cả các nhà bác học và y sĩ. Tôi cũng có mặt trong số người được mời đến chứng kiến. Cuộc biểu diễn được tổ chức tại giảng đường Vật lý học. Chúng tôi là một thành phần gồm các nhà khoa học, có một khối óc phê bình chặt chẽ, và như ông đã biết, tôi ít chú ý đến các vấn đề tôn giáo, Yoga, và những vấn đề tương tự, vì tôi đã để hết thời giờ và tâm trí vào ngành Y khoa. Người yogi đứng ngay giữa giảng đường, và người ta đưa cho anh ta những thứ thuốc độc lấy từ trong phòng thí nghiệm hoá học của trường. Trước hết, chúng tôi đưa cho anh ta một lọ acide sulfurique. Anh ta rót vài giọt trên lòng bàn tay và đưa lưỡi liếm. Kế đó, người ta đưa cho anh ta một lọ a-xít phenol cực mạnh, và anh ta cũng làm như trên. Chúng tôi liền thử với một loại thuốc độc nhất là chất Cyanure de Potassium, nhưng anh ta nuốt luôn cả thứ này mà vẫn dửng dưng như không.

Sự kiện này thật là lạ lùng và thật không thể nào tin được. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn phải chấp nhận sự thật hiển nhiên diễn ra ngay trước mắt chúng tôi. Anh ta đã nuốt một liều
Cyanure de Potassium đủ mạnh để giết chết một người trong vòng ba phút đồng hồ! Tuy thế, anh ta vẫn đứng trơ trơ, nhăn răng cười và không hề hấn gì cả.

Sau đó, một chai thủy tinh dày được đập vỡ ra từng mảnh và tán thành bột.
Narasingha Swami nuốt luôn cả thứ bột miểng chai này, là một thứ giết người một cách chậm chạp. Ba giờ sau khi anh ta đã nuốt trôi bữa ăn khác thường này, một vị bác sĩ trong nhóm liền đặt ống bơm vào bao tử của người yogi và bơm ra những gì còn lại. Những loại thuốc độc kể trên vẫn còn y nguyên trong bao tử.

Qua hôm sau người ta nhận thấy chất bột miểng chai trộn lẫn với phẩn của anh ta khi đại tiện. Cuộc thí nghiệm của chúng tôi đã quá rõ ràng.


Người ta thử lại cường độ của chất
acid sulfuric thì thấy nó làm tan rã một vật bằng đồng. Trong số những người chứng kiến cuộc trình diễnSir C. V. Raman, nhà bác học trứ danh đoạt giải thưởng Nobel. Ông này tuyên bố rằng cuộc trình diễn của người yogi là một sự thách thức lớn đối với khoa học hiện tại.

Khi chúng tôi hỏi
Narasingha Swami làm sao anh ta có thể bắt thể xác của anh ta chịu đựng được những sự thí nghiệm đó, anh ta nói rằng bằng cách tập trung tư tưởng anh ta có thể chặn đứng và hóa giải ảnh hưởng khốc hại của các thứ thuốc độc.

Tôi được biết rằng
Narasingha Swami đã trở lại Calcutta sau đó ít lâu rồi sang Rangoon, thủ đô Miến Điện. Tại đây, anh ta cũng trổ tài trong một cuộc trình diễn tương tự.

Tôi bèn hỏi bác sĩ
Bandyo:

Bác sĩ có thể giải thích sự kiện này bằng lý thuyết y học được chăng?


Vị bác sĩ lắc đầu:


– Không, tôi không thể giải thích nổi. Việc này hoàn toàn làm tôi ngạc nhiên và không hiểu gì cả.


Khi tôi trở về nhà, tôi lục trong mớ tài liệu cất kỹ trong rương để tìm quyển sổ mà tôi đã ghi chép những cuộc nói chuyện của tôi với
Brama, người đạo sĩ trên bờ sông Adyar ngày trước. Tôi lật qua vài trang và thấy những dòng tài liệu này:

“Những thuốc độc dầu mạnh đến bực nào cũng không thể làm hại được vị đạo sĩ đã thực hành giai đoạn Đại công phu. Giai đoạn này gồm có sự phối hợp một vài loại tư thế, phép khí công, luyện ý chí và tập trung tư tưởng. Khi đạt đến trình độ này, người đạo sĩ có thể nuốt vào bụng bất cứ vật gì, dầu là thuốc độc, mà không bị tổn hại đến sức khỏe. Đó là một phép công phu rất khó và phải được luyện tập một cách đều đặn, thường xuyên, nếu muốn có kết quả tốt đẹp.


Tôi có nghe nói về một người yogi sống ở thành Bénarès có thể uống rất nhiều thuốc độc mà không sao cả. Vị yogi này tên là Trailingya Swami, ông ta nổi tiếng ở thành phố này hồi thời kỳ đó, nhưng đã qua đời từ nhiều năm nay. Trailingya là một đạo sĩ có bản lĩnh rất cao cường về môn Hatha Yoga. Ông ta thường ngồi bên bờ sông Hằng suốt nhiều năm, gần như không mặc áo quần gì cả, nhưng không ai có thể nói chuyện được với ông ta, vì ông ta tịnh khẩu.”


Tôi tưởng rằng sự kiện này thật không thể tin và không thể có được, thì những lời của
Brama đã giải thích cho tôi rõ về vấn đề này. Đôi khi tôi đã lấy làm thắc mắc về những việc làm không thể tin và không thể hiểu được của những người đạo sĩ Yogi. Nhưng biết đâu, có lẽ họ nắm giữ được những bí quyết của đời sống mà người phương Tây đang cố gắng để khám phá bằng hàng ngàn cuộc thí nghiệm khoa học hay chăng?



Tức Chandrasekhara Venkata Raman (1888-1970), nhà vật lý học Ấn Độ đoạt giải Nobel Vật lý năm 1930.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 36267)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 17744)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 24550)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 14004)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 23629)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 24008)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 15686)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 25731)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 25861)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 25421)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 18213)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 20625)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 28974)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 15509)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 14731)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 23912)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 15646)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 18490)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 13572)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 14774)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 11241)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 15658)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 18233)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 13438)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 13794)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 11329)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 29734)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 11650)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11958)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 17909)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 16609)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 14030)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 13525)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 12210)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13942)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 20337)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 13327)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 30415)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10897)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 23431)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 13613)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 18864)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 28552)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 12670)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 11656)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 24338)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12923)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 11220)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 12183)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 12191)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant