Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 4: Vài loại quả báo về thể xác

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 5123)
Chương 4: Vài loại quả báo về thể xác

NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG 4: VÀI LOẠI QUẢ BÁO VỀ THỂ XÁC

Những người tàn tật, đui què, câm điếc, những người bị các chứng bệnh nan y, đó là những thí dụ rõ rệt nhất về sự đau khổ của người đời. Đứng trước những cảnh đau khổ đó, chúng ta cảm thấy khơi dậy một lòng trắc ẩn sâu xa và thấm thía. Khi một trong những cảnh khổ đó xảy đến cho ta, hoặc khi chúng ta gặp phải những cảnh ngộ đắng cay, trái ý, chúng ta thường đâm ra hoài nghi về ý nghĩa thực sự của cuộc đời. Chúng ta thường tự hỏi:

– Tại sao tôi phải chịu sự đau khổ này? Tại sao những cảnh khổ này lại xảy đến cho tôi?

Anh Dennis là một người hiền lànhđức hạnh hơn người. Anh đã bị mất hết gia tài sản nghiệp và tất cả những đứa con anh cũng đều chết cả. Anh chịu đựng những cảnh khổ đó một cách kiên nhẫn và không hề phàn nàn rên siết. Nhưng khi anh bị một chứng bệnh kỳ quái làm cho toàn thân nổi lên những mụt nhọt lở loét, ghê tởm, thì anh bắt đầu nguyền rủa Thượng Đế và lần đầu tiên anh kêu thét lên trong cơn tuyệt vọng vì không biết được nguyên do những sự đau khổ đã xảy đến cho mình:

– Ai có thể nói cho tôi biết những nguyên nhân ấy, rồi tôi sẽ im lặngan phận. Tôi đã gây nên những tội lỗi gì?

Khi nói rằng nguyên nhân sự đau khổ là do những hành động sai lầm, tội lỗi đã gây ra trước đây thì người thời nay thường cho đó là một điều dị đoan, di sản của những tôn giáo cổ xưa đã lỗi thời. Ít người chịu suy nghĩ và nhìn nhận điều đó.

Tuy vậy, theo những cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì tội lỗiđau khổ đi liền với nhau như bóng với hình, và giữa nhân với quả vốn có một sự liên quan chặt chẽ.

Để hiểu rõ quan niệm trên, vốn là nền tảng cho những cuộc soi kiếp của ông Cayce, ta cần tìm hiểu ý nghĩa của danh từ karma, là danh từ duy nhất giải thích ý nghĩa vấn đề nhân quả. Karma là một danh từ Phạn ngữ, có nghĩa là hành động. Nhưng theo ý nghĩa triết học, thì nó được định nghĩa là nghiệp, hay nghiệp quả, và được hiểu như là luật nhân quả, là một định luậttác dụng chi phối mọi sự việc xảy ra trong vũ trụ.

Ông Emerson là người đã từng hấp thụtin tưởng nền triết học Ấn Độ, đã gọi đó là luật thừa trừ. Đấng Christ cũng đã nói về luật ấy một cách gọn gàng giản dị trong câu:

– Ngươi sẽ gặt những gì ngươi đã gieo.

Định lý khoa học của Newton nói rằng:

– Mỗi hành động đều gây nên một phản ứng tương đương và ngược chiều, áp dụng trên cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần.

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce làm cho người ta thích thú say mê vì nó khám phá ra tận nguồn gốc của những bệnh tật đau khổ trong kiếp hiện tại, truy nguyên ra từ những hành động trong những kiếp quá khứ, và làm sáng tỏ một cách rõ ràng cái quan niệm trừu tượng về nhân quả. Một sự nghiên cứu tỉ mỉ về những trường hợp đã quan sát cho biết rằng có nhiều loại quả báo khác nhau.

Một trong những loại đó có thể gọi là quả báo tương tác, nghĩa là một hành động gây tổn thương cho kẻ khác, kết quả cũng sẽ tác động ngược lại đối với người thực hiện một cách tương ứng.

Trong những tập hồ sơ của ông Cayce, có nhiều thí dụ về loại quả báo này. Có một trường hợp được ghi chép lại như sau:

Một vị giáo sư dạy nhạc, lúc mới sinh ra đã bị mù, có nghe nói về ông Cayce trong một chương trình phát thanh “Những sự mầu nhiệm”. Ông ta bèn đến nhờ ông Cayce khám bệnh, và sau một thời gian chạy chữa theo sự chỉ dẫn của ông Cayce, ông ta cảm thấy khá nhiều. Ba tháng sau, ông ta đã thuyên giảm được mười phần trăm về con mắt bên trái, mà các nhà chuyên môn về bệnh đau mắt cho là đã hoàn toàn hỏng.

Kế đó, một cuộc soi kiếp cho thấy rõ ràng tất cả bốn tiền kiếp của ông ta: Kiếp thứ nhất ở Bắc Mỹ hồi vào thời kỳ cuộc nội chiến ly khai (Secession); kiếp thứ nhì ở Pháp hồi thời kỳ Thánh chiến (Croisades); kiếp thứ ba ở Ba Tư vào khoảng một ngàn năm trước Tây lịch; và kiếp thứ tư ở châu Atlantide trước khi xảy ra cuộc Đại hồng thủy. Chính trong kiếp thứ ba ở Ba Tư, ông ta đã gây nên cái nhân xấu ác giờ được báo ứng bằng sự mù mắt của ông ta trong kiếp này. Hồi đó, ông ta là thành viên của một bộ lạc dã man có tục lấy dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào mắt những tù binh, và chính ông ta là đao phủ trực tiếp xử tội các tù nhân bằng cách đó!

Một thí dụ thứ hai đáng được ghi nhớ là trường hợp của một thiếu nữ làm nghề sửa móng tay, bị chứng liệt bại cả hai chân từ khi mới lên một tuổi. Cô này không thể đi đứng gì được nếu không dùng nạng chống và những dụng cụ nối xương nhân tạo. Một cuộc soi kiếp tiết lộ rằng nguyên nhân của bệnh trạng cô bây giờ là do một tiền kiếp ở châu Atlantide. Trong kiếp đó, cô đã dùng những phép thuật tà đạo để làm cho kẻ khác bị yếu mềm cả tay chân, trở nên bất lực và chịu để cho cô sai khiến. Bởi vậy trong kiếp này cô phải chịu quả báo về sự tổn thương mà cô đã gây ra cho kẻ khác.

Một thí dụ thứ ba về loại quả báo tương tác được ghi lại như sau:

Một người phụ nữ bốn mươi tuổi từ nhỏ đã bị một chứng bệnh kỳ lạ. Mỗi khi cô ăn một vài thức ăn như bánh mì, hoặc chất ngũ cốc, thì nhảy mũi dữ dội như bị chứng sổ mũi hoặc cảm cúm. Khi cô dùng đến một vài thứ vật dụng, nhất là đồ bằng da hay bằng nhựa dẻo (plastique) thì lại cảm thấy đau nhói dữ dội ở hông bên trái.

Cô đã đi khám bệnh với nhiều bác sĩ, nhưng không có kết quả, và cho biết rằng cô chỉ thấy giảm bớt trong những cuộc chữa bệnh bằng thôi miên lúc hai mươi lăm tuổi. Sự thuyên giảm đó kéo dài được sáu năm, nhưng rồi triệu chứng cũ lại tái phát.

Cô đến nhờ ông Cayce chữa bệnh. Cuộc soi kiếp cho cô tiết lộ rằng trong một tiền kiếp cô đã từng làm nghề bào chế thuốc, đã dùng nhiều chất hóa học để gây tổn thương cho kẻ khác. Bởi đó cô phải chịu sự đau đớn thể xác bởi những chất hóa học trong kiếp này. Cô cũng đã từng dùng một chất độc để làm cho kẻ khác bị nghẹt thở, và do đó mà ngày nay cô thường bị nhiễm độc bởi một vài chất kim khí, chất nhựa dẻo và những đồ da thuộc bằng chất hóa học...

Một loại quả báo thứ nhì thuộc phạm vi vật chất có thể gọi là quả báo về thể xác, theo đó thì sự lạm dụng thân thể trong một kiếp sẽ gây nên quả báo tương ứng trong một kiếp về sau. Đây là một thí dụ:

Một người đàn ông ba mươi lăm tuổi, từ thuở nhỏ đã bị chứng đau ruột và bộ máy tiêu hóa. Ông ta phải ăn uống kiêng cữ gắt gao và chỉ dùng được một vài loại thức ăn giản dị mà thôi. Và mặc dầu như thế, ông ta cũng tiêu hóa các bữa ăn một cách rất khó khăn, sau nhiều giờ vất vả và mệt nhọc.

Chứng bệnh này gây cho ông ta rất nhiều điều bất tiện, và gây trở ngại không ít trong đời sống xã hội. Cuộc soi kiếp của ông Cayce tiết lộ cho biết nguyên nhân của bệnh trạng này là trong một tiền kiếp dưới triều vua Louis XIII bên Pháp, ông ta từng làm hầu cận của nhà vua. Ông thừa hành công việc một cách tận tâm và chu đáo, nhưng lại có tật tham ăn và ăn uống quá độ. Trong một kiếp trước nữa, khi ông ta làm y sĩ dưới triều vua nước Ba Tư, ông cũng thường xuyên ăn uống không có tiết độ. Như thế trong hai kiếp, ông đã phạm lỗi về tâm lýlạm dụng sự ăn uống để tìm khoái lạc cho cơ thể. Điều này làm đảo lộn sự quân bình trong trạng thái tâm lý của ông ta, và gây ra quả báo tương ứng trong kiếp hiện tại. Quả báo về xác thân làm cho ông ta bị đau yếu bộ máy tiêu hóa, và bắt buộc ông ta phải hạn chế sự ăn uống trong kiếp này.

Một loại quả báo thứ ba về xác thân mà người ta thường thấy trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce có thể gọi là quả báo tượng trưng. Đây là một loại quả báo rất lạ kỳthú vị nhất trong các loại quả báo về thể xác. Một trường hợp thuộc loại quả báo này được kể ra như sau:

Ông Cayce có soi kiếp cho một người thanh niên bị bệnh thiếu máu từ thuở nhỏ. Anh ta là con của một vị bác sĩ, vì thế đã được săn sóc thuốc thang và chạy chữa đủ cách, nhưng vẫn vô hiệu quả. Một chứng bệnh nan y như thế hẳn là phải có một nguyên nhân rất sâu xa.

Một cuộc soi kiếp cho biết rằng trong một tiền kiếp ở xứ Peru, đã năm kiếp về trước, người này là một vị tướng đem quân chiếm đoạt xứ ấy một cách bạo tàn. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói:

– Cuộc chiến tranh đó đã làm cho bao nhiêu đầu rơi máu chảy, gây nên một thảm họa lưu huyết rất lớn. Bởi đó, trong kiếp hiện tại này, anh ta phải bị bệnh mất máu, không sao chạy chữa.

Chúng ta sẽ hiểu rõ ý nghĩa của sự việc này hơn nếu so sánh với trường hợp quả báo về thể xác, vì tội lỗi của người này không phải do sự lạm dụng một bộ phận nào trong cơ thể của anh ta. Đây cũng không phải là một trường hợp quả báo tương tác, vì nếu như thế thì người thanh niên này có lẽ đã là nạn nhân của một cuộc tàn sát hung bạo. Trái lại, ở đây chúng ta thấy nghiệp quả báo ứng vào chính thể xác của y: nó trở thành một công cụ cho y dùng để nhận lãnh quả báo. Bệnh mất máu làm cho cơ thể anh ta phải yếu đuối suy nhược kéo dài suốt một đời, chính là một cách trả nợ nặng nề đau đớn hơn và có một ý nghĩa sâu sắc hơn là một cái chết tức thời vì đao kiếm trên bãi chiến trường. Người này đã làm đổ máu cả một dân tộc để thỏa mãn tham vọng chinh phục đất đai. Trong kiếp này, sự yếu đuối bất lực do bệnh thiếu máu gây nên làm cho anh ta phải chịu quả báo một cách tượng trưng, nhưng vẫn là tương ứng với hành vi trước đây của anh ta.

Điều này có vẻ như hoang đường nếu chúng ta không quen với những quan niệm tương tự cùng loại, qua sự phát minh gần đây về những sự tương quan giữa tinh thần và thể xác theo khoa Tâm bệnh học (Psychosomatique).

Trước đây không lâu, người ta vẫn tưởng rằng tất cả mọi chứng bệnh đều do những nguyên nhân về sinh lý. Những sự tiến bộ của khoa chữa bệnh bằng tinh thần (Psychiatrie) đã chỉ rằng ít nhất có một số bệnh trạng mà nguyên nhân là do những xáo trộn tinh thần hoặc xúc động tình cảm gây nên. Từ sự khám phá này, mới nảy sinh ra một ngành y học mới gọi là khoa Tâm bệnh học (Psychosomatique, do hai danh từ Hy Lạp: psyche là tinh thần và soma là thể xác). Khoa học này cũng đã đạt được những kết quả hiển nhiên không thể chối cãi về sự liên quan giữa thể xác và tinh thần.

Khoa Tâm bệnh học đã chứng minh rằng những sự căng thẳng về tình cảm nếu không biểu lộ được bằng lời nói hay hành động, thường sẽ tự biểu lộ nơi thể xác một cách tượng trưng bởi một loại “tiếng nói của cơ thể”. Thí dụ, nếu người bệnh không nuốt được một cách trôi chảy trong bữa ăn mà người ta không tìm thấy có một nguyên nhân nào thuộc về cơ thể, thì đó có thể là do có một sự kiện tâm lý trong đời của bệnh nhân mà y “không thể nuốt được”. Sự buồn nôn, nếu không phải là do bệnh tật của cơ thể sinh ra, có nghĩa là người bệnh còn mang trong lòng một mối hận nào đó trong đời sống tình cảm của anh ta mà lúc nào cũng muốn “nôn mửa ra”.

Dường như có một sự tương quan chặt chẽ giữa “tiếng nói của cơ thể” theo khoa Tâm bệnh học với điều mà ta vừa gọi là “quả báo tượng trưng”. Trong các trường hợp sau này, dường như đương sự có một ý thức sâu xa thâm trầm về sự tội lỗi của mình, và ý thức đó biểu lộ ra nơi một bộ phận trong cơ thể. Sự chọn lựa một bộ phận nào sẽ tùy nơi cái ý nghĩa tượng trưng của bộ phận ấy. Dưới đây là một vài thí dụ điển hình trong số rất nhiều trường hợp quả báo tượng trưng mà người ta tìm thấy trong các tập hồ sơ của ông Cayce.

Một người bị chứng bệnh suyễn kinh niên, trong lúc soi kiếp được nghe ông Cayce nói rằng:

– Anh đã từng đè nén, áp bức kẻ khác, lẽ tự nhiên, nhân quả báo ứng, có lúc anh phải cảm thấy nghẹn ngào khó thở, cũng như chính anh bị kẻ khác đè nén và áp bức vậy.

Một người điếc nhận được lời cảnh cáo rằng:

– Anh đừng bịt tai làm ngơ trước sự đau khổ của những người cầu xin anh giúp đỡ.

Cuộc soi kiếp cho biết người điếc này là một người dòng dõi quí tộc dưới thời Cách mạng Pháp, nhưng thường ngoảnh mặt làm ngơ trước những tiếng rên siết và những cảnh lầm than khốn khổ của người đương thời.

Một người bị chứng bệnh lao tủy sống, được cho biết rằng:

– Ông đã từng gây nhiều chướng ngại khó khăn cho kẻ khác. Nên bây giờ ông phải chịu những khó khăn chướng ngại đó trong thân thể của chính mình.

Một người bị chứng bệnh rút gân, làm cho hai chân bị teo bắp thịt, càng ngày càng nhỏ dần, được cho biết rằng:

– Đây không chỉ là bệnh rút gân và teo bắp thịt mà thôi; đó là hậu quả của những gì mà anh đã làm cho kẻ khác trong những kiếp trước.

Trường hợp lạ lùng nhất về quả báo tượng trưng trong các tập hồ sơ Cayce là trường hợp của một đứa trẻ mười một tuổi, có tật đái dầm từ khi lên hai tuổi. Trường hợp này được kể ra một cách đầy đủ chi tiết hơn, vì tính cách đặc biệt của sự điều trị cho em bé ấy.

Người thiếu niên này thuở nhỏ rất hiền lành, được cha mẹ nuôi nấng dễ dàng cho đến khi người mẹ sinh thêm một đứa em gái. Từ khi đó, nó bắt đầu đái dầm trên giường trong giấc ngủ. Nó đái dầm như vậy mỗi đêm. Cha mẹ nghĩ rằng có lẽ nó cảm thấy sắp sửa bị bỏ rơi khi người mẹ sinh thêm một em nhỏ nữa, nên tiềm thức của nó khiến cho nó tái diễn những thói quen của tuổi sơ sinh để làm cho cha mẹ phải chú ý và săn sóc nó như thuở trước. Cha mẹ y bèn hết sức cố gắng để bày tỏ cho nó biết rằng tình thương của cha mẹ vẫn không thay đổi vì đứa em gái nhỏ mới sinh, và nó vẫn được thương yêu săn sóc như trước, nhưng vẫn không kết quả.

Khi đứa trẻ lên ba tuổi, cha mẹ nó bèn nhờ một vị bác sĩ chuyên môn về bệnh thần kinh chạy chữa. Sau một năm thuốc thang điều trị, nó vẫn không thuyên giảm chút nào, và cha mẹ nó đành phải chịu vậy. Suốt năm năm trường, nó vẫn tiếp tục đái dầm mỗi đêm. Cha mẹ nó chạy đủ thầy và thử đủ mọi cách điều trị nhưng bệnh vẫn không sao chữa khỏi. Đứa trẻ vẫn đái dầm như vậy cho đến năm tám tuổi. Một lần nữa cha mẹ em lại chạy chữa với một bác sĩ khác, và cuộc điều trị kéo dài suốt hai năm, nhưng vẫn không hiệu quả.

Khi đứa trẻ lên mười tuổi, thấy rằng việc điều trị vẫn không có kết quả gì, cha mẹ em mới thôi và đành chịu bỏ cuộc.

Khi đứa trẻ lên mười một tuổi tuổi, cha mẹ em nghe nói về khả năng chữa bệnh của ông Cayce. Người cha bèn đến nhờ ông Cayce khám bệnh về trường hợp lạ kỳ của đứa con trai mình.

Ông Cayce bèn dùng thần nhãn để soi kiếp cho đứa trẻ thì thấy rằng trong kiếp trước nó là một giáo sĩ đạo Gia Tô trong thời xử án những kẻ theo tà giáo. Công việc của người này là trị tội những mụ đồng bóng, phù thủy bằng cách trói họ trên những chiếc ghế đẩu, rồi cầm chân ghế chổng ngược đầu để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh.

Sau khi đã tìm ra cái lý do nhân quả nói trên, cuộc soi kiếp cho biết bệnh ấy có hy vọng chữa khỏi. Cha mẹ đứa trẻ được cho biết là hãy áp dụng phương pháp ám thị cho y trong giấc ngủ, và sự ám thị này phải thuộc về tinh thần chứ không phải về xác thể.

Vài hôm sau, khi về đến nhà, ban đêm người mẹ bèn đến ngồi bên cạnh giường con trai bà. Đợi đến lúc em đã ngủ mê, bà mới bắt đầu nói bằng một giọng trầm trầm và chậm rãi những lời này:

– Con là một người hiền lành tốt bụng. Con sẽ làm cho nhiều người được sung sướng. Con sẽ giúp đỡ tất cả những người con gặp trên đường đời của con. Con rất hiền lươngtốt bụng.

Bà lặp đi lặp lại câu ấy nhiều lần, và thay đổi với những danh từ khác nhau, tuy rằng với bấy nhiêu ý tưởng đó trong chừng mười phút trở lại, trong khi con bà đang ngủ mê.

Đêm đó, lần đầu tiên từ chín năm nay, đứa trẻ không đái dầm như mọi khi. Trong nhiều tháng, bà mẹ vẫn kiên trì theo đuổi phương pháp ám thị đó và cũng vẫn dùng bấy nhiêu lời tương tự. Đứa trẻ không đái dầm một lần nào trong suốt mấy tháng đó.

Dần dần, bà mẹ thấy rằng bà chỉ cần ám thị ba ngày một lần, rồi sau đó mỗi tuần một lần cũng đủ; và sau cùng, sự ám thị cũng không còn cần thiết nữa: Con bà đã hoàn toàn khỏi bệnh.

Trường hợp này có nhiều điểm lý thú. Trước hết là cuộc ám thị vừa áp dụng lần đầu tiên đã làm dứt hẳn một chứng bệnh kinh niên trong chín năm. Và nếu người mẹ không phải là một người đàn bà có học thứcđức hạnh, thì có lẽ người ta đã cho rằng đó là chuyện nói thừa; nhưng bà là một nữ luật sư ở Tòa Án, bà không phải là một người tin nhảm hay dị đoan mê tín, và không có tâm địa bất lương.

Điểm thứ hai là trong sự ám thị đó, bà mẹ không hề bảo con là đừng đái dầm. Sự ám thị đó không nhằm vào cái ý thức về thể xác, mà nhắm vào cái ý thức tâm linh của người thiếu niên. Nói một cách khác, sự ám thị nhắm vào cái ý thức về sự tội lỗi mà nó đã làm trong kiếp trước, được biểu lộ một cách tượng trưng trong thể xác của nó do đường tiểu tiện. Trong kiếp trước, nó đã nhận chìm người khác xuống ao nước lạnh, hoặc chịu trách nhiệm về hành động tàn ác đó; nên trong kiếp này, nó cảm thấy trong chỗ kín đáo, u ẩn của tiềm thức, rằng nó phải trả cái nghiệp ác đó, và cái quả báo đã ứng hiện vào xác thân của nó một cách tượng trưng. Mặc dầu trong kiếp này nó không làm hại ai, nhưng một lớp kín đáo trong tiềm thức làm cho nó nghi ngờ về sự tốt lành của mình, vì nó còn mang nặng trong lòng cái dấu ấn về sự trừng phạt nặng nề đau khổ mà nó đã gây ra cho kẻ khác trong kiếp trước. Sự ám thị của bà mẹ đã thức động đến cái lớp kín đáo u ẩn đặc biệt đó, làm cho nó hiểu rằng sự tội lỗi của nó có thể xóa bỏ được bằng những hành động và cử chỉ hiền lương, tốt lành, và bởi đó, cái quả báo tượng trưng kia sẽ không còn là cần thiết nữa.

Từ đó người thiếu niên đã bắt đầu sống một cuộc đời mới. Anh ta được mọi người thương mến, là một người học trò tốt và tỏ ra có khả năng lãnh đạo. Tâm tình, tính chất của anh ta đã thay đổi. Trong một cuộc giảo nghiệm về khả năng tại Viện Đào tạo nhân cách Johnson O’Connor, anh ta đã được xếp vào hàng những người có triển vọng thành công trong sự giao tế xã hội.

Người mẹ cho rằng sự thay đổi cá tính của anh ta một phần nhờ sự điều trị thần kinh, và một phần nhờ cuộc khám bệnh bằng thần nhãn của ông Cayce.

Hiện nay, vào năm mười tám tuổi, theo ý kiến của cha mẹ thiếu niên này, thì người anh ta có một đức tính căn bảnrộng rãi khoan dung đối với mọi người. Đối với những thói hư tật xấu của người đời, anh ta đều tìm cách bào chữa và tìm ra một sự giải thích về tâm lý để khoan dungtha thứ cho họ. Dường như tánh độc ác, khắc nghiệt của anh ta trong kiếp trước, mà chứng bệnh đái dầm là một hình phạt tượng trưng, đã được biến đổi thành một đức tánh khoan dung nhân hậu trong kiếp này. Nhờ đó, cán cân nhân quả đã lập lại sự thăng bằng, và căn bệnh quả báo của anh ta cũng dứt tuyệt.

Nếu chúng ta xét lại những trường hợp nhân quả báo ứng kể trên, chúng ta có thể thấy rõ một vài nguyên tắc tác động chung của luật nhân quả.

Trong những cuộc quan sát và soi kiếp của ông Cayce, ông đã chỉ cho ta thấy rằng mọi hành động trong quá khứ đều gây nên một nghiệp quả hiển nhiêncụ thể trong hiện tại. Nhưng cái nghiệp quả đó không phải lúc nào cũng báo ứng một cách thật ăn khớp với cái nguyên nhân đã gây ra, theo kiểu như vay thế nào trả thế ấy.

Thí dụ như trường hợp người nhạc sư bị mù mắt. Kiếp trước ông ta đã dùng dùi sắt nhọn nướng đỏ chọc vào mắt kẻ tù binh; nhưng kiếp này ông ta không sinh làm dân của một bộ lạc dã man để rồi bị bắt làm tù binh của một bộ lạc thù địch tàn bạo, dùng dùi sắt nướng đỏ chọc vào mắt ông ta giống như vậy. Ông ta sinh ra đã bị mù lòa, và sinh trưởng trong một xã hội văn minh tân tiến của thế kỷ hai mươi. Những sự việc xảy ra trong kiếp này của ông ta không hoàn toàn giống hệt như sự việc đã xảy ra trong kiếp trước.

Thí dụ trên và nhiều thí dụ khác cùng một loại có thể cho phép chúng ta đi đến kết luận chung rằng: Luật nhân quả là một định luật tâm lý, nó tác động trước hết là trên địa hạt tâm lý. Những hoàn cảnh vật chất chỉ là một phương tiện để đạt tới cái mục đích tâm lý đó mà thôi. Vì thế, sự báo ứng của nghiệp quả trên bình diện vật chất không hẳn phải là đúng khớp với cái nguyên nhân đã gây ra từ trước, mà chỉ là đúng theo một cách tượng trưng, dựa vào yếu tố nhận thức tâm lý là chính. Trên bình diện tâm lý, nghiệp quả báo ứng mới thật là tương ứngtrọn vẹn.

Một nguyên tắc đại cương khác dường như căn cứ trên vấn đề khí cụ của nghiệp quả. Trong các tập hồ sơ của ông Cayce, người ta không hề thấy có trường hợp nào mà sự đau khổ trong kiếp hiện tại lại gây ra bởi một nạn nhân cũ của đương sự trong kiếp trước, và đã gặp lại người ấy trong kiếp này. Trong trường hợp của vị nhạc sư mù từ lúc mới sinh: Không có điều gì chỉ rằng cha mẹ ông ta vốn là những nạn nhân cũ trong kiếp trước, nay đầu thai lại để hành phạt ông ta. Cô thiếu nữ làm nghề sửa móng tay bị bệnh liệt bại hai chân từ thuở nhỏ không phải là bị trả thù bởi những nạn nhân cũ của cô trước kia ở châu Atlantide...

Nói tóm lại, quả báo xảy đến thường là không phải do nạn nhân đương sự gây ra, mà có thể do những người khác, những người này chỉ là những công cụ của nghiệp quả, cũng như những người tay sai đi đòi nợ, để cho đương sự thông qua đó mà trả những món nợ cũ. Và những người “tay sai” này cũng chỉ hành động một cách vô ý thức, chứ không biết gì cả về cái vai trò “thiên lôi” hay “hung thần” của mình, tức là cái vai trò làm công cụ của nghiệp quả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14299)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14349)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13267)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14629)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12638)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25217)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27859)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26334)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17223)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15908)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22127)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17127)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24890)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21948)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16166)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21718)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16777)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14663)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16697)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25025)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14772)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16605)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18008)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12916)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12694)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13881)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14597)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28004)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27165)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14342)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20936)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14666)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24171)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28660)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14730)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13281)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16441)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27222)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16070)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21463)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant