Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 14: Những thiếu phụ cô đơn

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4773)
Chương 14: Những thiếu phụ cô đơn

NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG 14: NHỮNG THIẾU PHỤ CÔ ĐƠN

Khi người ta xét vấn đề hôn nhân theo quan điểm luân hồinhân quả, nghiệp duyên từ những kiếp quá khứ xa xôi, người ta không khỏi tự hỏi rằng tại sao lại có những người sống cô đơn không lập gia đình? Có nhiều phụ nữ, mặc dầu có một dung nhan khá đẹp và tính nết bình thường, nhưng cơ hội kết hôn dường như không bao giờ đến với họ!

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã giải thích vấn đề này như thế nào? Có một câu tục ngữ Pháp nói về vấn đề hôn nhân như sau:

“Hôn nhân ví như một thành trì bị bao vây, những người ở ngoài thì cố sức vào, còn những người ở trong thì muốn chạy ra!”

Câu này dường như đã nói lên một sự thật quá phũ phàng. Hôn nhân đã làm cho nhiều người đau khổ đến nỗi người ta phải ngạc nhiên mà thấy rằng vẫn còn rất nhiều kẻ khác muốn lọt vào vòng, không màng đến những đe dọa của nó đối với sự yên tĩnh của tâm hồn, và chỉ nhìn thấy những điều vui sướng mà nó hứa hẹn!

Mặc dầu người ta đã biết rằng hôn nhân có những sự khó khăn đau khổ như thế, nhưng những người độc thân nói chung thường cảm thấy rằng họ thiếu mất một cái gì quí báu, và cảm thấy đời sống khô khan, vô vị vì họ đã bỏ lỡ một cuộc đời!

Điều tất nhiên là trong tình trạng đó, yếu tố dục tình đóng một vai trò quan trọng. Sống độc thân, ít nhất là ở những xứ gọi là “văn minh”, có nghĩa là hoàn toàn tiết dục, hay ít nhất cũng là hạn chế hoạt động tình dục, dù đó là phụ nữ hay đàn ông.

xã hội Tây phương ngày nay, việc sống độc thân, nhất là đối với phụ nữ, được xem là một sự “bất hạnh”. Những trường hợp kể ra dưới đây đều là những trường hợp của phụ nữ, vì trong các tập hồ sơ Cayce, phụ nữ tỏ ra băn khoăn thắc mắc về vấn đề này nhiều hơn đàn ông, và những trường hợp đau khổ của họ cũng bộc lộ rõ rệt hơn. Cô đơn! Có một cái gì tẻ lạnh ở trong danh từ này, một cái gì buồn thảm không thể nói ra cho xiết. Cũng vậy, khi một phụ nữ thốt ra câu “Tôi sống độc thân” thì có lẽ đó là câu nói buồn thảm nhất về hoàn cảnh hiện thời của cô ta.

Nếu không có một sự soi sáng tâm linh để giải đáp cho vấn đề này thì sự độc thân có lẽ là một trong những vấn đề khó khăn, tẻ lạnh nhất của đời người. Dưới đây là trường hợp của một người phụ nữ luôn cảm thấy khổ sở vì phải sống một cuộc đời quạnh hiu, đơn chiếc.

Cô là một người Na Uy rất đẹp và duyên dáng, làm thư ký ở New York. Cô đã trải qua hai đời chồng. Người chồng trước qua đời sau khi thành hôn một thời gian rất ngắn. Sau đó cô tái giá với một người khác lớn tuổi hơn cô nhiều, nhưng cuộc hôn nhân này lại không có hạnh phúc, và cuộc ly dị đã đến rất mau. Cô không có con, tất cả những người thân trong gia đình đều đã qua đời và cô chỉ còn trơ trọimột mình. Công việc của một thư ký giúp cô có cơ hội tiếp xúc với nhiều người, nhưng đó chỉ là những giao tiếp bề ngoài. Cô ước mong tái giá lần nữa, nhưng dịp may mãi không thấy đến và cho đến nay cô vẫn sống cô đơn.

Khi yêu cầu ông Cayce soi kiếp, những câu hỏi của cô biểu lộ một tâm sự buồn thảm và đau thương:

– Tại sao tôi lại bị cô đơn tẻ lạnh như thế này? Có một lý do đặc biệt nào khiến tôi không thể tìm thấy một bạn tri kỷ trong hôn nhân? Tại sao tôi lại thất bại như thế này?

Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce cho biết rằng tình trạng cô độc này có một nguyên nhân rất sâu xa. Hai kiếp về trước ở Na Uy, cô đã làm một việc lầm lạc tai hại gây nên tình trạng bi đát hiện nay. Đó là cô đã tự tử trong một cơn thất chí! Trong kiếp đó, cô là mẹ của hai đứa con nhỏ và chồng cô vì một lý do nào đó đã bị trục xuất khỏi làng. Sau khi sinh đứa con thứ hai, cô quá thất vọng và nhảy xuống vực sâu tự tử. Ông Cayce nói:

– Bởi đó mà trong kiếp này cô phải chịu những lúc quạnh hiu, sầu thảm, hầu như không thể chịu nổi!

Quả báo trong trường hợp này thật là rõ rệt. Trong một lúc thất vọng, người đàn bà này đã tự tử, làm cho chồng con bị thiếu mất đi cái tình trìu mến săn sóc mà họ cần nơi người vợ và người mẹ. Cô đã không đếm xỉa đến bổn phận gia đìnhtrách nhiệm đối với chồng con, và bởi đó cô tạo nên cái hoàn cảnh bơ vơ lạc loài trong kiếp này.

Chỉ khi nào người ta bị thiếu thốn tình thương thì người ta mới biết quí trọng cái giá trị của nó. Đó là một trường hợp đáng cho ta suy gẫm.

Điều này cho thấy là mỗi người chúng ta đều phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình, kể cả việc tự mình chấm dứt sự sống của mình, vì điều đó gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho người khác. Mọi cử chỉ lãnh đạm, thản nhiên, thờ ơ hay khinh bạc, mọi sự lạm dụng và những hành vi trái đạo trong đời sống hằng ngày đều phải nhận chịu những quả báo tương ứng.

Trường hợp cô đơn dưới đây cũng gần giống như trường hợp trên, tuy rằng với những chi tiết khác hẳn. Đó là một phụ nữ người Anh dạy học ở một trường mẫu giáo và rất mong muốn lập gia đình. Cha mẹ đã qua đời từ khi cô còn nhỏ; cô được các bà dì nuôi nấng trong một bầu không khí lãnh đạm, khô khan và nghiêm khắc, kết quả là biến cô thành một con người không thể hòa hợp với những người đồng lứa tuổi. Suốt đời cô luôn cảm thấy cô độc đơn chiếc, cách biệt với mọi người, và những khuynh hướng của một tâm hồn khép chặt đã biểu lộ nơi cô.

Cô đã trải qua một cuộc tình duyên, nhưng đó chỉ là một sự hấp dẫn về thể chất, và mối tình này đã chấm dứt khi sự khác biệt về tâm tính với người yêu của cô ngày càng bộc lộ rõ rệt. Từ đó trở đi, cô cảm thấy cuộc đời dường như trống rỗng và vô vị. Cô làm việc sốt sắngthành công về phương diện nghề nghiệp; thông minh lanh lợi và biết giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có những lúc cô đắm chìm trong một cơn thất vọng sầu thảm kéo dài nhiều tuần lễ và khó nguôi.

Trong những cơn khủng hoảng đó, cô thường nghĩ đến sự tự vẫn. Người ta không thể tưởng tượng rằng một người đàn bà vừa có nhan sắc vừa khôn ngoan lại có thể bị những cơn thất chí buồn bực sâu xa đến như thế!

Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong bốn kiếp về trước cô sống ở Ba Tư và đã tự tử khi những bộ lạc Ả Rập tấn công xứ này. Trong kiếp đó, cô là con gái của người tù trưởng trong xứ, và bị bắt làm tù binh của vị quốc vương Ả Rập, cùng lúc với nhiều người khác. Sau đó, cô bị đem gả làm hầu thiếp cho một viên phó tướng Ả Rập, sinh hạ một đứa con gái, và sau đó ít lâu vì thất chí nên tự vẫn. Đứa con gái nhỏ sống vất vưởng không người săn sóc giữa bọn tướng giặc, cho đến ngày kia có một vị giáo sĩ đi hành hương thấy vậy động lòng trắc ẩn và đem em bé ấy về nuôi cho đến khi trưởng thành.

Cuộc soi kiếp cho biết rằng người mẹ đã tự tử chỉ vì không thể chịu khuất phục theo ý muốn của người khác; và chỉ vì muốn thỏa mãn lòng tự kiêu của mình chứ không phải vì lý do tự vệ để bảo tồn trinh tiết, hay giữ gìn lý tưởng.

Cuộc soi kiếp không cho biết thêm chi tiết nào khác, nhưng người ta có thể hiểu rằng người đàn bà này có tâm địa kiêu căng, ngã mạn, tự tôn, và thà rằng cô tự hủy mình chớ không chịu bị đè nén, khuất phục, mặc dầu cô còn có một trách nhiệm với đứa con gái nhỏ mới sinh ra. Xét về tâm tính của cô trong kiếp này, nó biểu lộ dưới những cử chỉ tự dohiên ngang như đàn ông, người ta sẽ hiểu rằng có lẽ thói tự kiêu của cô trong kiếp sống ở Ba Tư, chính là điều chướng ngại ngăn cách cô với phái nam trong kiếp sống hiện tại. Chính sự thiếu mềm dẻo, tế nhị, sự cứng cỏi ương ngạnh của cô làm cho những người đàn ông đều tránh xa và không muốn làm thân với cô.

Điều lạ lùng là trong kiếp này, cô luôn mong muốn có con. Nếu các bà dì của cô không ngăn cản thì có lẽ cô đã nuôi một đứa con nuôi từ lâu. Có một điều cô mang theo từ kiếp trước là cô thường nghĩ đến sự tự vẫn.

Từ khi có cuộc soi kiếp đưa đến những giải thích về tình trạng của cô, cô không còn nghĩ đến sự tự vẫn như một lối thoát nữa, vì hiểu rằng những gì mà cô muốn trốn tránh trong hiện tại sẽ trở lại với cô trong tương lai.

Tuy thế, trong một cuộc soi kiếp nữa, cô được cho biết rằng cô còn có thể hy vọng một cuộc hôn nhân trong kiếp này, nhưng vào lúc đã quá tuổi xuân; và trong khi chờ đợi, cô nên giúp đỡ bằng mọi cách những người mà cô tiếp xúc trong đời sống hằng ngày.

Khi được hỏi rằng còn bao lâu nữa cô mới có hạnh phúc đó thì ông Cayce trả lời rằng:

– Khi nào cô tỏ ra xứng đáng thì điều đó sẽ đến.

Khi cô hỏi:

– Tại sao trong khoảng năm năm qua tôi không gặp được một người đàn ông nào cả?

Thì câu trả lời là:

– Đó là sự thử thách tâm tínhmục đích sống của cô trong kiếp sống hiện tại.

Trên đây là hai trường hợp mà sự tự tử và bỏ con cái bơ vơ trong kiếp trước đã gây nên quả báo cô đơn tẻ lạnh và thất vọng trong sự mong ước thành lập gia đình trong kiếp này. Trong những tập hồ sơ Cayce, còn có một trường hợp thứ ba. Đó là của một nữ giáo sư âm nhạc ở tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Bà này cũng ở trong một tình trạng tương tự với những lý do giống nhau là đã tự tử trong kiếp truớc dưới thời kỳ quân chủ ở nước Pháp.

Tuy nhiên, người ta không thể căn cứ vào ba trường hợp để đi đến một kết luận chung về quả báo của những người bị sống trong cảnh cô đơn, độc chiếc, mà sự tự tử có lẽ là nguyên nhân gây ra trong kiếp trước. Ông Manly Hall, tác giả quyển “Luân hồi: sự tuần hoàn cần thiết của đời người”, nói rằng quả báo của sự tự vẫn là trong kiếp sau, đương sự sẽ bị chết vào lúc mà người ấy ham muốn sống và yêu đời nhất.

Trong các hồ sơ Cayce, không thấy có trường hợp nào xác nhận điều đó, dù rằng nghe ra thì có vẻ như rất hợp lý.

Tuy nhiên, sự cô đơn và không chồng trong kiếp hiện tại có thể có nhiều nguyên nhân khác. Thí dụ như trường hợp dưới đây cho ta thấy một lý do khác hẳn. Xét về trường hợp này, người ta nghĩ đến câu nói của ông Oscar Wilde:

Trong đời chỉ có hai điều khổ, điều thứ nhất là muốn mà không được; và điều thứ hai là được như ý muốn!

Câu nói mâu thuẫn lạ kỳ này căn cứ trên sự kiện rằng con người vì bởi vô minh nên thường xét đoán sai lầm giá trị của cuộc đời. Trong kho tàng cổ tích có chuyện một bà tiên cho người kia được đưa ra ba điều ước nguyện và sẽ được như ý muốn. Câu chuyện ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng con người thường có những ước vọng dại dột điên rồ, và phải gánh chịu lấy hậu quả tai hại của sự dại dột ấy. Câu chuyện có một ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc về hai sự kiện này: Một là phần đông người đời không biết rõ họ muốn gì; và hai là sự đau khổ của con người là phần nhiều do những sự ước vọng sai lầm vì sự thiển cận và thiếu óc sáng suốt.

Trường hợp sau đây đã xảy ra từ thời kỳ ở châu Atlantide và đương sự hãy còn chịu quả báo ở kiếp này. Đó là một người đàn bà độ bốn mươi tuổi, có một thân hình nặng nề và thô kệch, nhưng điều này phần lớn là do bởi sự thiếu thể dụcsinh hoạt cẩu thả. Bà không bao giờ dùng đồ trang sức; quần áo cũng rất xuề xòa, không chạy theo thời trang. Bà chọn y phục theo tiêu chuẩn tiết kiệm hơn là để chưng diện và làm đẹp. Bà có nét mặt đều đặn và nếu được săn sóc ở mỹ viện thì cũng có thể trở thành một phụ nữ rất đẹp. Ngoài ra bà cũng có những cử chỉ duyên dáng, mặn mà, dễ thương. Trình độ văn hóa chỉ đến mức Tiểu học; bà làm việc trong các nhà máy và làm việc thủ công để nuôi thân.

Trong một cuộc trắc nghiệm tâm lý, bà có điểm cao nhất về mặt giao tế xã hộitôn giáo, vì những thích thú lớn nhất của đời bà là đọc các sách Thánh Kinh tôn giáo và làm việc cứu tế xã hội dưới một hình thức nào đó. Tuy vậy, bà vẫn sống một cuộc đời cô độc, đơn chiếc. Những người trong gia đình không ai cùng chia sẻ những quan niệm của bà về tôn giáo. Trong đời bà, bà không hề biết có gì gọi là hương vị ái tình hay tình yêu lãng mạn.

Nói về quan điểm tâm lý, người đàn bà này thuộc về một trường hợp rõ rệt của sự “phản ứng nam tính” (protestation masculine), nghĩa là từ chối hay phủ nhận vai trò nữ tính của mình. Sự phản ứng này biểu lộ rõ rệt trong cái thái độ hiếu chiến và chống đối những gì thuộc về nữ tính của bà; thí dụ như việc không chịu trang điểm hay làm đẹp để hấp dẫn đàn ông. Khoa tâm lý học có thể đưa ra một giải thích về thái độ đó, nhưng sự giải thích này vẫn còn rất thiếu sót.

Cuộc soi kiếp bằng thần nhãn của ông Cayce đã đưa ra sự giải đáp cho vấn đề này. Trong một kiếp sống trước, bà là thân nhân của Thánh Jean Baptiste, và nhờ đó bà sinh trưởng trong một bầu không khí đạo đức thâm nghiêm. Điều đó cũng là cái nguyên nhân làm cho bà có khuynh hướng tín ngưỡng tôn giáo trong kiếp này. Trong tiền kiếp trước đó, bà sinh làm một người đàn ông ở xứ Palestine thời cổ, tại đây người này làm nghề thợ mộc và thợ đồng; điều này dường như đã để lại cho bà những quan niệm thực tế và những khả năng về máy móc trong kiếp hiện tại. Trong kiếp trước đó nữa, bà là một phụ nữđịa vị cao ở châu Atlantide. Tại đây, một mối tình dang dở trong đời đã đem đến cho bà một sự xáo trộn tinh thần và nhiều đau khổ. Kết quả là bà “quyết định từ nay về sau sẽ không bao giờ yêu một người nào có thể làm cho bà bị thất vọng và gây cho bà những vết thương lòng”. Và đó là cái nguyên nhân làm cho bà quyết định sống tự do ngoài vòng trói buộcđau khổ của tình trường.

Bởi đó, tình trạng độc thân và đơn chiếc của người phụ nữ này không phải là do quả báo gây ra. Trong trường hợp này không có sự liên hệ về nhân quả như trong những trường hợp tự tử đã kể trên, mà chỉ có sự ảnh hưởng của một dòng tâm thức liên tục, do sức mạnh ý chí của chính bà trong quá khứ. Ngày xưa, bà đã quyết định một thái độ là sẽ không bao giờ yêu ai, nhất là không để cho tình cảm lôi cuốnđến gần đàn ông. Bà có quyết định này, không phải do một điều ước nguyện tâm linh hay do lòng bác ái; mà là do ý muốn của bản ngã, quyết không bao giờ để cho bị ảnh hưởng bởi tình yêu dành cho kẻ khác. Trong nhiều giai đoạn của các kiếp sống theo sau đó, bà không bao giờ tìm thấylý do nào để thay đổi thái độ đó. Và ngày nay, bà phải chịu những hậu quả tương ứng của cái quyết định đó, cho đến khi nào bà có thể thay đổi ý định và có thái độ xử thế khác hơn về vấn đề này.

Cuộc soi kiếp không cho biết rõ rằng bà có hy vọng thành hôn hay không trong kiếp này. Nhưng ít nhất, bà đã cố gắng để có thể đem sự săn sóctình thương cho kẻ khác. Vì thiếu tình yêu, bà mới nhận thấy cái giá trị của nó. Trong sự cô đơn, bà đã thấy sự chai lòng, sắt đá của mình xưa kia là một điều sai lầm cần phải sửa đổi.

Nhà tâm lý học Carl Jung nói rằng mỗi người đều có đủ hai phần nam tính và nữ tính trong bản chất của mình, nhưng cái nọ có phần trội hơn cái kia, tùy theo trường hợp riêng của mỗi người. Tâm thức con người hàm chứa những khả năng tiềm tàng chưa khai mở thuộc về đối tượng khác phái. Sự kiện tâm lý này ông Carl Jung đã khám phá sau nhiều năm khảo cứu tìm tòi, và tỏ ra hoàn toàn phù hợp với quan niệm trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce về nguyên nhân và sự tiến hóa tâm lý của con người.

Nam và nữ đều có những đặc tính riêng; đại khái như uy lực, cương cường, tranh đấu, hung bạo, thuộc về nam tính; sự hiền từ, dịu dàng, mềm mỏng, thụ động, thuộc về nữ tính. Người thuần nam tính là một người rất thiếu sót và bất toàn. Bởi đó, anh ta cần được bổ khuyết bằng những đức tính thuộc về phái nữ. Trong hôn nhân, hai cá tính nam và nữ đều hỗ trợ cho nhau đến một mức độ nào đó, do sự kết hợp của những đức tính tương phản nhau.

Trong một cặp vợ chồng, mỗi người đều có sự dung hòa, bổ khuyết, sửa đổi cho người kia. Nhưng sự sửa đổi này vẫn còn bất toàn. Trong một kiếp sống ở thế gian, một người trội hơn về phần nam tính không đủ dung hòa bằng những đặc điểm nữ tính của người vợ anh ta, và ngược lại. Nhưng nhiều kiếp sống liên tục sẽ làm cho đàn ông và đàn bà có những kinh nghiệm dung hòa lẫn nhau. Một lần nữa, thuyết luân hồi đưa đến cho ta một giải đáp về các vấn đề khó khăn là chính do nhiều kiếp luân hồicon người mới có thể phát triển tâm linh một cách hoàn toàn.

Bất luận rằng những nguyên nhân của sự cô đơn hiu quạnh là như thế nào, dầu cho đó là sự tự vẫn, sự quyết định không yêu ai, hay một lý do nào khác, người ta cũng phải nhìn nhận rằng tình trạng độc thâncảm giác cô độc có thể xem là một cơ hội để tu dưỡng về phần nội tâm. Vì muốn có bạn, ta phải tỏ ra sự thiện chí và tình thân hữu; vì muốn được yêu thương, ta phải biết dành tình thương cho người khác. Bằng cách trau dồi tình thương và lòng bác ái để đáp ứng được nguyện vọng của mình, những kẻ cô đơn hiu quạnh có ngày cũng sẽ thoát được ra khỏi tình trạng buồn chán trong hiện tạiđạt được hạnh phúc của tình yêu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14285)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14556)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11836)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14342)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13255)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14617)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12630)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25192)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27840)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26318)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17199)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16519)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15890)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22097)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17118)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24856)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21928)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19053)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16155)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21697)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16763)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14649)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16678)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25011)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18764)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21191)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14758)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14364)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16600)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 17999)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12894)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14931)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12689)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13877)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14593)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 27965)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27141)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14329)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20913)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14660)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24153)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28627)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14723)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13277)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16424)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27192)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 11991)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16050)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21429)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12359)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant