Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Quả báo không tức thì

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4860)
Chương 7: Quả báo không tức thì

NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG 7: QUẢ BÁO KHÔNG TỨC THÌ

Một điều lạ lùng mà ta có thể nhận thấy trong những trường hợp quả báo về xác thân như đã kể trên, là những quả báo chỉ xuất hiện một hay nhiều kiếp sau khi cái nhân đã được tạo ra. Người ta tự hỏi, tại sao lại có sự chậm trễ đó, tại sao nghiệp quả không báo ứng ngay tức khắc như một quả banh dội lại ngay sau khi được ném vào tường?

Dường như câu hỏi đó có nhiều cách giải đáp. Một là sau khi đã gây nhân tạo nghiệp, cần phải đợi đến khi có một hoàn cảnh thuận tiện cho cái nhân kia kết lại thành quả. Có khi phải đợi qua nhiều thế kỷ mới hội đủ các điều kiện. Trong khoảng thời gian đó, tất nhiên là mỗi người đều có được những cơ hội để cải thiện tâm tính, tu dưỡng tinh thần, và nhờ đó có thể giúp cho quả báo trở nên giảm nhẹ hơn.

Người ta tìm thấy một thí dụ về loại quả báo không tức thì này trong những tập hồ sơ Cayce về những tâm thức trước kia đã từng sinh ra ở châu Atlantide. Khoa học chưa bao giờ có thể xác nhận hay phủ nhận sự hiện diện của châu Atlantide vĩ đại và cổ xưa nay đã chìm dưới đáy Đại Tây Dương, mặc dầu người ta có đủ lý do để tin vào sự kiện ấy trước rất nhiều bằng chứng lịch sử, khoa học và văn hóa.

Một tài liệu lịch sử quan trọng là bộ sách “Crisias và Timeus” của Platon. Trong đó, tác giả tường thuật những điều ông đã nghe nói về châu Atlantide.

Một trong những bằng chứng khoa học thường được nêu ra là sự khám phá của các nhà bác học, nhân dịp một sợi dây cáp ngầm dưới Đại Tây Dương bị đứt và chìm xuống đáy biển ở một độ sâu ba ngàn thước. Khi sợi dây cáp được vớt lên, thì nó dính theo những mẫu phún thạch (lava). Khi người ta phân tích những mẫu phún thạch này thì thấy rằng ngày xưa chúng đã từng đông đặc lại trên đất liền trước khi chìm xuống đáy biển.

Trong những bằng chứng văn hóa đáng kể nhất thì trước hết là những huyền thoại về cuộc đại hồng thủy. Người ta không chỉ gặp những huyền thoại này trong bộ Kinh Thánh (Bible), mà còn cả trong những truyện thần thoại tôn giáolịch sử của hầu hết những dân tộc cổ xưa trên thế giới.

Kế đó là những điểm tương đồng giữa những ngôn ngữ, văn tự và kiến trúc của Ai Cập và Trung Mỹ, ở vào một thời kỳ mà người ta không thấy có những phương tiện giao thông giữa hai lục địa châu Mỹ và châu Phi.

Tất cả những bằng chứng kể trên có thể giúp cho người ta tin tưởng vào sự hiện diện của châu Atlantide, dù vẫn chưa đủ để đưa đến một kết luận chắc chắn. Nhưng nếu ta tin vào kết quả những cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì châu Atlantide đã từng hiện hữu một cách hiển nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa.

Theo ông Cayce, một vài gian phòng bí mật hãy còn khóa chặt trong Đại Kim tự tháp ở Ai Cập, một ngày kia sẽ có thể tiết lộ cho chúng ta một kho tài liệu đầy đủ về lịch sử và nền văn minh của châu Atlantide. Ông Cayce cho biết rằng, những tài liệu đó được chôn giấu trong Kim tự tháp bởi những người dân Atlante ngày xưa di cư qua Ai Cập trong cuộc thiên tai địa chấn lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng đã nhận chìm châu Atlantide xuống đáy biển vào khoảng chín ngàn năm trăm năm trước Tây lịch.

Ông Cayce cũng nói rằng, đảo Bimini ở ngoài khơi tiểu bang Florida (Hoa Kỳ), nguyên là đỉnh một ngọn núi cao ở châu Atlantide ngày xưa. Ông cũng cho biết rằng tại nơi đó, người ta có thể tìm thấy dưới đáy biển một ngôi đền cổ của dân Atlante. Mái bầu của ngôi đền được xây cất với những tấm kiếng thủy tinh theo một kiểu kiến trúc đặc biệt để thâu ánh nắng mặt trời.

Những cuộc soi kiếp cũng cho biết dân Atlante ngày xưa đã từng đạt tới một trình độ khoa học tiến bộ hơn cả chúng ta ngày nay. Họ đã từng phát triển đến một mức độ rất cao trong các ngành điện khí, vô tuyến điện, vô tuyến truyền hình, những phương tiện di chuyển trên không trung, tàu ngầm, cùng phương pháp sử dụng năng lượng mặt trờinăng lượng nguyên tử. Họ đã từng phát minh những kỹ thuật dùng nhiệt lượng để thắp sáng và vận chuyển tiến bộ hơn chúng ta ngày nay.

Điều đáng ghi nhớ là những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường lặp đi lặp lại nhiều lần rằng dân Atlante ngày xưa bị họa diệt vong vì họ đã lạm dụng những sức mạnh kinh khủng mà họ chế ngự được. Họ dùng điện lực, khoa thôi miênsức mạnh của tư tưởng để đàn áp, chế ngự kẻ khác, hoặc sai khiến người khác làm việc như những nô lệ, hoặc để cưỡng hiếp phụ nữthỏa mãn sắc dục.

Những sự lạm dụng quyền năng và những hành vi trái đạo kể trên không thể cứu chuộc được một cách đầy đủ và trọn vẹn cho dù những kẻ phạm lỗi ấy đã phải trải qua nhiều thời kỳ đớn đau khổ nhục để bù đắp, trong những thời kỳ mà khoa học chưa được phát triển và người ta chưa có những kiến thức sâu rộng về khoa tâm lý hoặc khoa huyền môn. Sự thử thách hữu hiệu nhất để biết một người đã thắng được thói ăn uống vô tiết độ hay chưa là đặt trước mặt anh ta những món cao lương mỹ vị, để xem anh ta có biết tự chủ hay không? Người ta không thể biết được một người đã hoàn toàn tự chủ về sắc dục hay chưa, nếu người ấy chưa gặp phải sự thử thách và bị cám dỗ mà vẫn không động lòng như thánh Antoine ngày xưa, lòng vẫn thanh tịnh giữa những giai nhân tuyệt sắc, đáng yêu! Cũng vậy, những kẻ tội lỗi đã từng lạm dụng những quyền năng phi thườngmầu nhiệm nhờ sự phát triển khoa học của châu Atlantide thuở xưa, chưa hẳn đã thực sự từ bỏ thói ích kỷ tham tàn và thay đổi tâm tính, nếu họ chưa gặp những hoàn cảnh tương tự của một thời kỳ phát triển khoa học và kỹ thuật như thời đại này để thử thách xem họ có biết dùng những phương tiện đó với một tinh thần xây dựng, hay là với mục đích ích kỷ hại nhân như thuở trước.

Sự tiến bộ theo từng chu kỳ của lịch sử đã làm cho thế kỷ hai mươi trở nên một thời kỳ phát triển khoa học như vừa nói trên. Vì thế, những cuộc soi kiếp của ông Cayce tiết lộ rằng có rất nhiều người dân Atlantide thời cổ nay đã tái sinh vào thời kỳ hiện tại.

Những tiến bộ về kỹ thuật và khoa học của thời đại này có thể hiểu theo hai cách. Trước hết, đó là kết quả những kinh nghiệm về phát minh khoa học mà những người dân Atlantide đã mang theo từ những tiền kiếp quá khứ xa xăm của họ ở châu Atlantide ngày xưa. Thứ hai, thời kỳ này có thể xem là giai đoạn thử thách cho những con người đã từng phạm tội đó, để bộc lộtrong suốt thời gian qua họ đã thâu thập được những đức tính gì khả dĩ giúp cho họ chống lại sự cám dỗ do thói ích kỷ và tàn bạo còn rơi rớt lại của thế hệ văn minh khoa học vật chất.

Vì thế, có vẻ như yếu tố căn bản quyết định vấn đề quả báo không tức thì là việc những ai đã gây nghiệp quả xấu phải chờ đến khi tái sinh vào một thời kỳ thuận tiện, hội đủ những điều kiện để quả báo xấu của họ thực sự chín muồi.

Vấn đề này hình như cũng có liên quan đến sự tiến bộ từng chu kỳ của lịch sử và sự luân phiên của những tâm thức tương đồng trong việc tái sinh cùng lúc vào những thời kỳ thích hợp. Những trào lưu chủng tộc và các sắc dân trên địa cầu dường như cũng tái sinh trở lại thế gian theo từng giai đoạn, ví như những luồng sóng dập dồn nối nhau từng chu kỳ, theo định luật tuần hoàn của vũ trụ.

Tuy nhiên, có nhiều đoạn ghi nhận trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce chỉ ra rằng sự tái sinh của các nhóm thiểu số trong những nhóm lớn đó, và thậm chí trường hợp của từng cá nhân trong các nhóm ấy, không phải do một sự tiền định hoặc theo từng khuôn mẫu hay chu kỳ nhất định. Trường hợp của mỗi một tâm thức cũng như từng nhóm tâm thứcnghiệp lực tương đồng không phải bao giờ cũng tái sinh một cách đều đặn như một sự việc đã định sẵn. Điều này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác tác động từ bên ngoài (các duyên) cũng như những thay đổi bên trong của từng tâm thức riêng biệt.

Về điểm này, cũng như trên những lãnh vực khác của sự sống trong vũ trụ, con người vốn luôn có quyền tự do ý chí, và mỗi cá nhân hay một nhóm người đều luôn có quyền tự do chọn lựa những điều kiện liên quan đến sự tái sinh của mình, nếu họ có đủ sáng suốt. Nhận xét này gợi lên một sự phức tạp mới nữa: Nếu một tâm thức muốn phát triển những đức tính hay công hạnh nào đó, tâm thức ấy cần có sự chọn lựa một thời điểm tái sinh thích hợp, với những điều kiện thích hợp Và sự tu dưỡng của cá nhân mỗi tâm thức cũng là điều kiện góp phần vào việc tâm thức ấy có phải tức thời nhận lãnh những quả báo xấu mà mình đã tạo ra hay không.

Những sự kiện kể trên là những yếu tố góp phần giải thích hiện tượng quả báo không tức thì sự tu dưỡng tinh thần là một yếu tố quan trọng luôn phải được xét đến, bởi nó vừa mang tính chủ quan của mỗi cá nhân, vừa tạo ra những tác động khách quan khiến cho mọi hoàn cảnh đều có thể thay đổi. Với sự tu dưỡng tinh thần, người ta có thể chịu đựng những quả báo xấu khi chúng xảy đến và xem đó như những cơ hội để rèn luyện, tu dưỡng, nhằm hoàn thiện tinh thần hơn nữa. Mặc dù không thể tránh khỏi việc nhận lãnh những quả báo xấu do lỗi lầm đã mắc phải trong quá khứ, nhưng một người biết tu dưỡng có thể xem đó chính là cơ hội để thâu thập, rèn luyện những đức tính cần thiết để tiếp tục đương đầu với quả báo khác nữa khi nó tuần tự xảy đến trong cuộc luân hồi.

Nhiều người bệnh tật khi được ông Cayce soi kiếp và được cho biết rằng nguồn gốc bệnh trạng của họ được truy nguyên ra từ nhiều kiếp trước, đều lấy làm tò mò muốn biết lý do của sự kéo dài như thế. Những người muốn làm sáng tỏ vấn đề này bằng một cuộc soi kiếp thứ nhì, đều nhận được câu trả lời giống như của cô thiếu nữ què mà chúng tôi đã kể chuyện trong chương 5. Cô này hỏi:

– Tại sao đến kiếp này tôi mới phải trả nghiệp quả mà tôi đã gây ra từ thời đế quốc La Mã?

Cô ấy được trả lời như sau:

– Bởi vì không có đủ những điều kiện thích hợp để quả báo của cô chín muồi vào một thời điểm sớm hơn.

Như vậy, khi một quả báo xấu không đến sớm hơn, đó là vì có những nguyên do chủ quan bên trong lẫn những điều kiện khách quan bên ngoài. Trong trường hợp này cũng như nhiều trường hợp bệnh tật khác, một sự nghiên cứu tỉ mỉ về những kiếp trung gian thường cho thấy rằng đương sự đã có những chuyển hóa tốt đẹp hơn qua sự tu dưỡng, hoặc biết tận dụng nhiều cơ hội để phát triển thêm những đức tính và có sự tiến hóa về mặt tinh thần. Chính vì thế mà những điều kiện nhân duyên thuận lợi cho sự chín muồi của một quả báo xấu đã không được tạo ra.

Thí dụ, nếu chúng ta xét lại trường hợp của người thiếu niên mười sáu tuổi, bị thương nặng trong vụ tai nạn xe hơi như đã kể trên, chúng ta thấy rằng nguyên nhân của nghiệp quả này là do anh ta đã gieo từ thời kỳ đế quốc La Mã. Tuy nhiên, trong một kiếp trước đây khi tái sinh vào thời kỳ Cách mạng ở Bắc Mỹ, anh ta cho thấy có sự phát triển nhiều đức tính như lòng can đảm, yêu đời và khả năng khai thác khía cạnh tốt của mọi hoàn cảnh. Những đức tính đó hoàn toàn không phải tự nhiên có được, mà nó biểu lộ sự nỗ lực của các nhân trong sự vươn lên hoàn thiện chính mình. Và điều đó không phải gì khác hơn mà chính là một trong những hình thức tu dưỡng tinh thần. Nhờ đó mà những điều kiện thích hợp cho sự chín muồi của một quả báo xấu đã bị ngăn chặn.

Một thí dụ sau đây có thể giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về vấn đề này. Một người vay tiền của ngân hàng để kinh doanh. Anh ta không thể trả hết số nợ đó trong vài ngày hay một tuần lễ, hoặc một tháng ngay sau khi vay. Việc kinh doanh của anh ta cần có thời gian, và vì thế sự trả nợ cũng phải có một thời gian, kỳ hạn nhất định. Những món nợ nghiệp quả cũng tương tự như thế, cần có một kỳ hạn nhất định trước khi chín muồi và biểu hiện thành những sự kiện tốt hay xấu trong đời người.

Đó là những lý do khách quan cũng như chủ quan có thể giải thích cho việc người ta thường không nhận lãnh những quả báo xấu một cách tức thì.

Nếu một ngày kia thuyết luân hồi được tất cả mọi người thừa nhận, và nếu quan niệm về nhân quả được quần chúng Tây phương cũng như Đông phương hiểu rõ, ít nhất là trên nguyên tắc đại cương, thì chắc chắn vấn đề quả báo không tức thì sẽ có ý nghĩa răn đe hữu hiệu đối với rất nhiều người! Cái ý tưởng rằng một hành động độc ác nào đó trong quá khứ rồi chắc chắn sẽ dẫn đến những quả báo phải chịu đui mù, tàn tật trong một kiếp tương lai xa hay gần sẽ là một bản án treo làm cho người ta phải cảm thấy lo sợ, cân nhắc mỗi khi sắp phạm vào một sự lỗi lầm. Đối với những người nhạy cảm và có đức tin mạnh mẽ thì một món nợ nhân quả không được biết rõ cũng ví như một lưỡi gươm của Damoclès treo lủng lẳng phía trên và chực chờ rơi xuống đầu họ bất cứ lúc nào, và điều đó có tác dụng giúp họ luôn phải biết lo sửa mình tu dưỡng thay vì sống buông trôi theo lạc thú.

Đối với một số người thì thuyết nghiệp quả có thể chỉ là một sự dọa dẫm mơ hồhoàn toàn không có cơ sở khoa học, cũng như hình tượng quỷ Satan và lửa hỏa ngục đã từng là một mối đe dọa làm nhiều người sợ hãi trong nhiều thế hệ đã qua! Để chống lại cái khuynh hướng sợ sệt mơ hồ đó, họ đi đến việc phủ nhận toàn bộ vấn đề quả báo, cũng như phong trào Khoa học Công giáo (Science Christienne) đã từng phủ nhận mọi tội lỗi, sự lầm lạc... Tuy nhiên, sự phủ nhận vật chất thế gian cũng như vấn đề tội lỗiquả báo không có ý nghĩa giải quyết vấn đề! Điều nên làm của chúng ta không phải là giấu giếm sự thật, như con chim đà điểu vùi đầu xuống cát để giấu mình, mà là phải thấu hiểu được sự thật để biết tự chế phục mình và xây dựng cuộc đời này theo những lý tưởng hay khuynh hướng tâm linh cao cả.

Sự phủ nhận nhân quả chẳng khác nào không thừa nhận những món nợ mà mình phải trả hay những bài học mà mình cần phải học hỏi, và đó là một thái độ bất lương. Kẻ nào muốn gạt gẫm hay trốn tránh trách nhiệm, dầu đó là những trách nhiệm vật chất hay tinh thần, đều không thể gây cho người khác lòng mến phục.

Thói thường, khi người ta không thích một điều gì, người ta hay lý luận một cách khôn khéo để phủ nhận điều ấy. Đó cũng là một sự trốn tránh trách nhiệm. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là mọi sự lý luận hay dẫn dụ (suggestion) đều là vô ích. Trái lại, sự dẫn dụ có thể rất hữu ích để chữa những bệnh trạng thuộc về tâm lý. Chúng ta đã thấy trường hợp lý thú của đứa trẻ bị chứng bệnh đái dầm và phương pháp dẫn dụ để đánh tan mặc cảm tội lỗi hằn sâu trong tiềm thức, đã chữa cho em ấy được khỏi bệnh.

Nếu các nhà tâm lý học muốn chữa những chứng bệnh về mặc cảm tội lỗi thì phương pháp điều trị tốt nhất là làm cho bệnh nhân thành thật nhìn nhận những tội lỗi đã gây ra; bày tỏ một ý muốn chân thành muốn chuộc lỗi, và sau cùng phải bày tỏ sự cương quyết làm việc tốt và hướng thiện, nghĩa là theo hướng ngược lại với tội lỗi đã gây ra. Như vậy, quả báo sẽ dần dần giảm nhẹ cho đến tiêu tan, và bệnh sẽ thuyên giảm.

Nếu chúng ta chấp nhận thuyết luân hồi thì ta phải nhìn nhận rằng nhân loại chưa có được sự tiến hóa cao về phương diện tâm linh, vì thế mà con người còn phải chịu những quả báo xấu trong nhiều kiếp sống tương lai. Nhưng ta không nên quá băn khoăn lo sợ vì điều đó. Tục ngữ phương Tây có câu: “Mỗi ngày chỉ chịu đựng vừa đủ sự khổ nhọc của nó!” (A chaque jour suffit sa peine.) Câu này ngụ ý là ta nên sống mỗi ngày một cách bình tĩnh, chấp nhận mọi sự việc mà không cần phải băn khoăn lo lắng. Chẳng những là mỗi ngày mà mỗi kiếp sống cũng vậy; dầu cho ta có bị những khó khăn đau khổ như thế nào, ta cũng phải sống trọn đời sống của mình với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng những gì xảy đến cho ta là rất công bình, và ta luôn có đủ sức chịu đựng mọi điều xảy đến. Không gì có thể xem là quá sức chịu đựng của ta trong đời sống cả.

Hơn nữa, dầu cho ta có tin vào luật nhân quả hay không, ta cũng phải thừa nhận rằng tương lai là một cái gì mà ta không thể biết được một cách chắc chắn. Và nếu ta tin rằng những tai họa xảy đến cho ta là do lẽ nhân quả báo ứng chứ không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ hay ý muốn của một đấng toàn năng, thì những nỗi băn khoăn sợ sệt của ta sẽ tự nó tan biến, vì lý do giản dị là quả báo luôn xảy đến cho ta theo một định luật công bằng tuyệt đối.

Con người thường hay sợ sệt những tai họa sẽ đến, nhưng nếu biết rằng sự việc luôn xảy đến một cách công bằng thì ta sẽ chẳng có gì phải lo sợ hay trốn tránh. Ngược lại, mỗi tai họa còn có thể là một cơ hội để mang đến cho ta một bài học hay và mở rộng tầm kiến thức cũng như rèn luyệntu dưỡng tinh thần. Như vậy, rõ ràng đó không phải là một điều đáng sợ.

Một người lương thiện nếu biết mình mắc nợ thì phải cố gắng lo việc trả nợ; anh ta sẽ làm việc một cách siêng năng chăm chỉ để có thể trả hết món nợ vào đúng kỳ hạn, nhưng hoàn toàn không cần thiết phải lo lắng sợ sệt về việc ngày trả nợ sẽ đến. Người ấy chỉ cần đem hết tinh thần, sức lực, cố gắng làm việc để có thể trả dứt nợ nần, vì đó mới là sự nỗ lực đúng hướng nhất.

Vì tầm ý thức của chúng tagiới hạn nên chúng ta không thể biết được rằng mình đã mắc phải bao nhiêu món nợ quả báo trong những tiền kiếp thuộc về quá khứ xa xăm. Nhưng dù vậy, chúng ta cần phảithái độ thẳng thắn của một người lương thiện, chấp nhận những món nợ của ta với một thiện chíchân thành muốn trả nợ. Sự chấp nhận luật nhân quảtin tưởng vào sự công bằng tuyệt đối của nó chính là thái độ tích cực nhất của chúng ta đối với mọi quả báo xảy đến.

Khi có thể đặt niềm tin vào sự tác động công bằng của luật nhân quả thì chắc chắn ta không thấy có bất cứ điều gì cần phải sợ sệt cả. Những ai gieo gió sẽ phải gặt bão, và nếu nỗ lực làm thiện thì sẽ được hưởng những quả báo tốt đẹp. Chỉ có thế thôi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14302)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14562)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11841)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14356)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13271)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14634)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12641)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25230)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27865)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26339)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17228)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16525)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15914)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22134)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17131)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24900)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21956)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19057)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16170)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21720)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16779)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14664)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16698)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25026)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18770)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21197)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14775)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14371)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16611)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12921)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14942)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12700)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13885)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14599)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28020)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27179)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14346)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20949)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24174)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28674)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14734)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13284)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16444)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27229)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12018)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16074)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21483)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12376)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant