Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 23: Những khía cạnh của luật nhân quả

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4991)
Chương 23: Những khía cạnh của luật nhân quả

NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG 23: NHỮNG KHÍA CẠNH CỦA LUẬT NHÂN QUẢ

Trước đây, chúng ta đã thấy trường hợp của người nhạc sĩ mù do kiếp trước khi sống trong một bộ lạc ở Ba Tư đã lấy dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào mắt những tù binh để hành tội.

Trong trường hợp này, người ta sẽ đặt câu hỏi: “Tại sao người này phải chịu trách nhiệm về một việc làm tuân theo những tục lệ địa phương thời đó? Xét cho cùng, ông ta không thể làm khác hơn những gì xã hội đương thời đòi hỏi, vậy tại sao ông phải chịu quả báo trong khi ông chỉ thừa hành một công việc mà xã hội bắt buộc ông phải làm?

Chẳng hạn như vào thời nước Pháp còn dùng những quân đao phủ để thi hành các bản án tử hình. Người đao phủ ấy chỉ là một nhân viên thừa hành và không thể làm gì khác hơn được. Có thể nào người ấy phải chịu quả báo khi thực hiện một công việc do luật pháp đã phán định hay chăng? Nhưng nếu là không, thì tại sao người của bộ lạc nước Ba Tư thời cổ khi lấy dùi sắt nung đỏ chọc vào mắt tù binh lại phải chịu quả báo?

Trước đây chúng ta đã thấy rằng không chỉ riêng hành động gây nên nghiệp quả, mà chính những tư tưởng làm động lực thúc đẩy trong lòng người, làm cơ sở biểu lộ ra hành động ấy mới là yếu tố quan trọng hơn trong việc tạo nên nghiệp quả.

Ngoài ra, còn có vấn đề trách nhiệm chung, hay cộng nghiệp. Nếu mọi người trong một xã hội cùng tán thành và thực hiện những tập quán xấu xa, độc ác, gây đau khổ cho nhiều người, thì tất cả những người thuộc về cộng đồng xã hội đó đều phải chia sẻ trách nhiệm và nhận lãnh quả báo xấu.

Theo ý nghĩa của nền luân lý thông thường, nếu những hành vi tàn bạo như sát phạt, giết chóc, gây thương tích cho kẻ khác là những điều xấu ác, thì tất cả những thành viên của xã hội tàn bạo đó đều có thể xem là phạm tội, nếu không trực tiếp thì cũng là gián tiếp.

Tội ác đó sẽ càng tăng thêm nếu một người biết rằng những tập tục đó là độc ác mà vẫn tán thành và không làm gì để trừ bỏ đi. Và nếu họ trực tiếp nhúng tay vào những hành động hung dữ ấy thì tội ác sẽ càng tăng hơn thêm.

Lấy dùi sắt nhọn chọc thủng mắt người khác chỉ vì họ là tù binh của một bộ lạc cừu địch, dĩ nhiên là một hành động hung ác bạo tàn. Nếu người hành hình đó tự trong lòng mình có sự chống đối, không tán thành việc làm hung bạo này, và chỉ thực hiện công việc vì bị bắt buộc thì có lẽ nghiệp ác tạo ra sẽ được giảm nhẹ. Nhưng nếu trong khi thực hiện công việc ấy mà tự trong lòng ông tán thành việc làm hung ác này, nghĩa là ông cũng nuôi trong lòng một sự hung ác tương đương với tập tục xấu ác đó, thì chắc chắnquả báo sẽ phải nặng nề hơn.

Nếu người nhạc sĩ nói trên trước đây chỉ thực hiện công việc với một tinh thần trong sạch, hoàn toàn không vì thỏa mãn dục vọng riêng tư, không có lòng hung dữ bạo tàn và đàn áp kẻ khác, thì ác nghiệp tạo ra sẽ được giảm nhẹ.

Cũng theo lập luận đó nên khi thấy rằng người ấy đã chịu quả báo mù lòa trong kiếp này thì ta có thể kết luận ngay rằng ông ta trước đây đã nuôi lòng hung ác trong khi thực hiện công việc hành tội người khác.

Trong chương 11, chúng ta đã thấy rằng một nhận thức không toàn diện về luật nhân quả có thể làm cho người ta phải băn khoăn lưỡng lự trước một vài vấn đề xã hội và không biết phải hành động như thế nào cho hợp lẽ.

Chẳng hạn, chúng ta đã thấy rằng trong nhiều trường hợp, sự lạm dụng quyền năng trong những kiếp quá khứ đã đưa đến cảnh nghèo khổ khốn khó trong kiếp hiện tại. Và nếu những sự khốn khổ của con người đều do những việc làm xấu ác của họ gây nên trong quá khứ thì ta phải đối xử thế nào với những kẻ hoạn nạn khốn cùng? Ta phải có thái độ như thế nào đối với hoàn cảnh khó khăn đau khổ của kẻ khác? Ta có nên ngoảnh mặt làm ngơ và nói như thế này chăng:

– Này ông bạn, ông bạn đau khổquả báo do ông bạn tự gây ra chứ không phải oan uổng gì đâu. Tôi không thể giúp gì cho ông bạn, vì tôi không muốn can thiệp vào luật nhân quả.

Và ta có nên nghĩ rằng thiện cảm dành cho những “tội nhân” ấy là một thái độ sai lầm, và lòng nhân từ đối với họ là một điều đặt không đúng chỗ trước những tác động hoàn toàn khách quan của luật nhân quả hay chăng?

Như đã nói, sự thật thì những thắc mắc như trên đều là xuất phát từ một nhận thức không toàn diện về luật nhân quả. Nhưng có lẽ ta cũng không nên giải đáp những câu hỏi này một cách hấp tấp vội vàng, và với một sự chủ quan bồng bột.

Chúng ta biết rằng một kẻ sát nhân nguy hiểm sẽ không thể không chịu hình phạt xứng đáng. Nếu vì lòng nhân hậu mà người ta để cho kẻ ấy được tự do sau một thời gian giam cầm ngắn ngủi, thì rất có thể một tội ác tiếp theo đó sẽ xảy ra. Chúng ta cũng biết rằng, một người học trò kém cỏi không thể cố gắng học hết chương trình nếu vị thầy dạy quá dễ dãi và không xử phạt nghiêm khắc những lần trốn học. Chúng ta cũng biết rằng một đứa trẻ không thể biết vâng lời nếu người mẹ luôn bênh vực không để nó phải chịu sự giáo huấn nghiêm khắc của người cha.

Tuy thế, sự thờ ơ trước những khổ đau của những người khác không bao giờ có thể xem là một việc nên làm. Do tính chất phức hợp của luật nhân quả nên bản thân việc này cũng là một nhân xấu sẽ mang lại quả xấu cho ta trong tương lai. Trong thực tế, vào bất kỳ thời điểm nào ta cũng thấy có những người luôn cố gắng hoạt động trong các công trình cứu tế từ thiện để làm dịu bớt sự đau khổ của nhân loại. Những người này thường không có sự suy tính hơn thiệt, mà họ hành động vì sự thúc đẩy của lòng nhân ái. Chúng ta không thể phán xét rằng những người này đang chống lại luật nhân quả khi họ nỗ lực giúp đỡ những người chịu quả báo xấu. Một phán xét như vậy là phiến diệnsai lầm, xuất phát từ sự không hiểu biết đầy đủ về luật nhân quả.

Trở lại với những thí dụ minh họa mà ta vừa nêu ra ở trên. Vị quan tòa phán xử nghiêm khắc một tội nhân không phải do lòng ác độc, mà vì luật pháp của một xã hội đã được soạn thảo theo cách cố gắng bảo vệ tất cả mọi người trong xã hội đó một cách công bằng. Vì thế, vị quan tòa có bổn phận phải tuân theo luật pháp. Và khi ông làm đúng như vậy thì điều đó không thể xem là thiếu lòng nhân ái. Trong thực tế, tất cả những vị quan tòa cương trực, nghiêm khắc thật ra đều là những người tốt, biết gạt bỏ mọi sự tư lợi để luôn hành động theo lẽ phải, vì lợi ích của tất cả mọi người.

Tương tự như thế, một thầy giáo nghiêm khắc không phải là người thiếu tình thương đối với học trò, mà thật ra chính vì yêu thương và mong muốn cho người học trò của mình thành đạt nên ông mới hết lòng quan tâm đến việc học của anh ta cũng như thực hiện mọi biện pháp kỷ luật cần thiết để răn dạy. Một người học trò khi thực sự thành đạt chỉ có thể hết lòng biết ơn về sự dạy dỗ nghiêm khắc của thầy chứ không thể xem đó là những biểu hiện của sự thiếu tình yêu thương.

Cũng vậy, một người cha có thể tỏ ra nghiêm khắc với con cái khi cần thiết, bởi trong lòng ông luôn muốn dành cho con mình một sự giáo dục tốt nhất, chứ không phải vì ông không thương con bằng người mẹ.

So sánh với cả ba trường hợp kể trên thì sự thương yêu giúp đỡ những người khốn khổ trong xã hội hoàn toàn không giống với việc cản trở quan tòa thi hành pháp luật hay ngăn cản người thầy, người cha trong việc dạy dỗ... Bởi vì sự giúp đỡ và an ủi một người khi họ đang rơi vào hoàn cảnh khốn khổ là xuất phát từ tấm lòng chân thật và hướng thiện của ta, còn quả báo mà người ấy đang nhận lãnh là xuất phát từ những tư tưởnghành vi không tốt của họ trong quá khứ. Hai điều này có thể tương tác với nhau nhưng không hề cản trở, mâu thuẫn nhau. Ta có thể giúp giảm nhẹ nỗi đau khổ của một người nhưng không thể ngăn cản quả báo xấu đến với họ, cho dù ta có muốn làm như thế. Nhưng sự giúp đỡ an ủi của ta có thể cảm hóa phần nào những tính xấu có thể đang còn tồn tại nơi người ấy, và điều đó sẽ có tác dụng rất tích cực trong việc giúp giảm nhẹ quả báo mà họ đang hứng chịu.

Mặt khác, khi ta biết thương yêu giúp đỡ người khác là ta đang xây dựng tương lai tốt đẹp cho chính mình. Và nếu tất cả mọi người đều biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau thì một cộng đồng xã hội như vậy chắc chắn sẽ là một môi trường tốt đẹplý tưởng cho tất cả mọi người. Vì thế, ta không thể vì những lỗi lầm trong quá khứ của một người mà quay lưng với người ấy, khiến cho bản thân mình lại trở thành một kẻ lãnh đạm, thờ ơ, khô khan tình cảm. Ngay cả sự khoan hồng đối với tội nhân cũng luôn được thực hiện ở nhiều xã hội khác nhau, và không ai cho đó là một sai lầm. Vì chính sự khoan dungtha thứtác dụng chuyển hóa còn mạnh mẽ hơn cả những hình phạt nghiêm khắc nhất. Trong một số trường hợp, sự trừng phạt có thể tạo ra tâm trạng oán hận và có tác dụng ngược lại, trong khi sự khoan hồng bao giờ cũng mang đến sự biết ơncảm hóa.

Cuộc đời của ông Edgar Cayce có thể xem là một tấm gương vị thatích cực giúp đỡ người khác. Những người đến với ông trong cơn khốn khổ đều được ông giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để giúp họ giảm nhẹ mọi nỗi đau khổ, cho dù hơn ai hết ông luôn nhìn thấu mọi tội lỗi, sai lầm của họ trong quá khứ. Trong suốt bốn mươi năm, ông đã hoạt động với một tấm lòng nhiệt thành và nhân ái để cứu giúp những người đau khổ từ thể xác đến tinh thần.

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đều xác nhận rõ ràngcon người luôn chịu sự chi phối của luật nhân quả mà phương Đông đã biết rõ từ lâu đời. Đồng thời những cuộc soi kiếp đó cũng xác nhận rằng lòng thương yêulý tưởng phụng sự bao giờ cũng là nền tảng dẫn đến mọi điều tốt đẹp.

Vì thế, bất kể rằng tội lỗi của một người khác là như thế nào trong những kiếp quá khứ, ta vẫn nên cố gắng giúp đỡ họ, và đừng bao giờ lầm tưởng rằng làm như thế là có thể can thiệp vào tác động của luật nhân quả.

Ngoài ra, chúng ta nên nhớ rằng sự thờ ơ lãnh đạm truớc sự đau khổ của kẻ khác cũng là một điều xấu ác sẽ đưa đến quả báo xấu về sau này.

Một khía cạnh khác của vấn đề tế nhị này là con người luôn có quyền tự do ý chí trong mọi hành động và không phải tất cả mọi việc trong cuộc đời đều đã được định sẵn từng chi tiết một cách bất di bất dịch. Mỗi một sự cố gắng của chúng ta để giúp đỡ một người đang khổ đau hoạn nạn không chỉ là một kinh nghiệm bản thân cần thiết cho ta để tự hoàn thiện tâm hồn mình, mà còn là một nhân tố tích cực có thể làm thay đổi cả thái độ tinh thầncuộc đời của đương sự.

Xét cho cùng, ta nên hiểu rằng nghiệp quả đều là do tư tưởnghành vi tạo nên. Những hành vi sai trái, những cung cách xử thế sai lầm, đều có nguyên nhân từ sự lầm lạc trong tư tưởng. Vì thế, người ta chỉ có thể thay đổi thái độ đối với cuộc đời theo hướng tốt đẹp hơn bằng cách hoàn thiện phần tư tưởng.

Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tuyên bố xác định rằng tư tưởng chính là sức mạnh sáng tạo, và nếu không có sự thay đổi tư tưởng theo hướng tốt đẹp hơn thì người ta không thể sửa đổi lại những nghiệp quả xấu ác đã gây ra từ trước.

Luật nhân quả quyết định một cách chắc chắn rằng mỗi con người tự tạo nên cái thân phận sang hèn, may rủi, tốt xấu, vui buồn của chính mình. Luật nhân quả không áp đặt bất cứ điều gì lên sự tự do ý chí của con người, nhưng đảm bảo một cách chính xác rằng mỗi một hành vi hay tư tưởng của chúng ta trong hiện tại đều sẽ mang đến những kết quả tương xứng trong tương lai. Và điều này thúc đẩy mọi người phải hết sức nỗ lực để tự tu dưỡng bản thân, hướng đến một tương lai ngày càng tốt đẹp hơn nữa.

Chính vì hiểu rõ luật nhân quả nên người Phật tử luôn giữ thái độ hồn nhiên, thanh thoát trước mọi nghịch cảnh, mọi nỗi thăng trầm của cuộc đời. Điều mà họ quan tâm nhất không phải là hoàn cảnh trong hiện tại tốt hay xấu, mà chính là việc mình đã làm được những gì để tích lũy cho tương lai. Và quan điểm sống đó bao giờ cũng giúp họ tích cực vươn lên trong cuộc sống, cho dù có gặp phải nhiều khổ đau và bất hạnh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17443)
Trời tu viện rộng và đẹp, sáng nay mây ngoài biển đã kéo vào chưa? Thôi, xin mời thầy hãy vào cốc Trăng Lên, nhóm lửa và thêm chút củi vào cho ấm... Nguyễn Duy Nhiên
(Xem: 46538)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 9628)
Ghi chép lại những bài giảng của Chư Tôn Đức cho các Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN... Tâm Minh Vương Thúy Nga
(Xem: 8823)
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”... Thích Chân Tính
(Xem: 15941)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15572)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18357)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9662)
Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy: Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thươngtuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.
(Xem: 9728)
Tập truyện Thường Ðề Bồ Tát (Bồ Tát Hay Khóc) được trích dịch trong cuốn “Vô Thanh Thoại Tập” của Pháp sư Long Căn... TT Thích Chân Tính biên dịch
(Xem: 18520)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 15722)
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương, Non cao biển rộng người thương đi về... Quách Tấn
(Xem: 10995)
Bản thảo của tập tiểu luận này đã được viết xong từ mùa hè năm 1974, nhưng chưa kịp in thì biến cố 30.4.1975 xảy ra... Hạnh Cơ
(Xem: 8987)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông... Tuệ Sỹ
(Xem: 10488)
Hương Vị Của Đất - Văn Lang Dị Sử - HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 10255)
Tập sách “Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ”... Nhóm Thiện Pháp thực hiện, Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
(Xem: 9413)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không... Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 11575)
Hương Lúa Chùa Quê là tập sách Hoài Niệm về Tuổi Thơ của hai anh em là HT Thích Bảo Lạc ở Úc Châu và HT Thích Như Điển ở Âu Châu
(Xem: 10143)
Hoà Thượng vào bậc Cao Tăng nổi tiếng hiện nay rằng: “Được học và hành theo Phật pháp là một sự hưởng thụ tối cao nhất trong tất cả mọi sự hưởng thụ trên thế gian…” Quảng Huy
(Xem: 23086)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 9631)
Đạo Phật thường nói về nhân quả, luân hồi, tái sanh nhưng lại bác bỏ khái niệm linh hồn của các tôn giáo hữu thần. Vậy thì cái gì tái sanh luân hồi để lãnh lấy nhân quả... Alexander Berzin; Tuệ Uyển
(Xem: 17302)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 16718)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 19151)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 10233)
Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này.
(Xem: 19470)
Lão tửtriết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo... Nguyễn Hiến Lê dịch
(Xem: 9492)
Trên căn bản của thực tại, hạnh phúc bao giờ cũng cưu mang trong chính nó một sức sống tràn đầy sinh lực của cảm xúc an bình được sinh khởi từ bản thể của nội tâm... Khải Thiên
(Xem: 12336)
Quyển Liễu Phàm Tứ Huấn là sách khuyến dạy tu thiện, giúp xây dựng lại và củng cố nền tảng căn bản làm người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ,Tín... Ấn Quang Đại Sư; Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch
(Xem: 12036)
CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19; Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu... Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch
(Xem: 19903)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 12746)
Hạnh Phúc Là Điều Có Thật - Tác giả Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)
(Xem: 13178)
Sống Một Đời Vui - The Joy Of Living; Nguyên tác Yongey Mingyur Rinpoche, Diệu Hạnh Giao Trinh & Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 14443)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32460)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13108)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12008)
Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ là cẩm nang của người tu Thiền. Nguyên tác Mindfulness, Bliss and Beyond của Ajahn Brahm; Nguyên Nhật Trần Như Mai dịch
(Xem: 20953)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 40691)
Theo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, mà là một quy luật chi phối trong suốt dòng thời gian...
(Xem: 10144)
Những Chuyện Nhân Quả - Nguyên tác: Thích Hải Đảo, Đạo Quang dịch
(Xem: 9603)
Chú Tiểu Ngắm Sen là tuyển tập các truyện ngắn của tác giả Ngô Khắc Tài
(Xem: 19034)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
(Xem: 8904)
Chánh Niệm - Bhante Henepola Gunaratana; Mindfulness in Plain English; Lương Thanh Bình dịch
(Xem: 8383)
Tập truyện dài 2 tập của Vĩnh Hảo - CHIÊU HÀ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1997
(Xem: 10511)
Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha... HT Thích Nhật Quang
(Xem: 11738)
Lược Sử Phật GiáoHồi Giáo Tại Afghanistan - Nguyên tác: Alexander Berzin, Người dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 30715)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 11565)
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo gồm có 2 tập do Chư Tôn Đức Tăng Ni và Chư vị thân hào nhân sỹ Phật giáo góp bài để tập thành... Nhiều Tác Giả
(Xem: 10505)
Mở Rộng Cửa Tâm Mình và những mẫu chuyện Phật Giáo nói về Hạnh phúc, Opening The Door Of Your Heart and other Buddhist Tales of Happiness, Nguyên tác: Ajahn Brahm; Chơn Quán Trần Ngọc Lợi dịch
(Xem: 16129)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 25750)
“Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng” là tên của một quyển sách, do thầy Phạm Công Thiện đặt cho. Bây giờ Thầy đã lên tới đỉnh cao, bỏ lại sau lưng là hố thẳm... Nguyên Siêu
(Xem: 10080)
Đây là câu chuyện được phóng tác từ nhân vật Phật giáo có thật trong lịch sử cận đại, thời nhà Nguyễn gầy dựng đế nghiệp ở kinh đô Huế từ nửa đầu thập niêm 80 của thế kỷ 18.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant