Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II.

10 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8743)
II.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG HAI: HÀNH TRÌNH SANG ẤN ĐỘ

II.

Tuy rời khỏi cảng New York vào ngày 17 tháng 12 năm 1878, nhưng chúng tôi vẫn chưa ra khỏi hải phận Mỹ cho đến trưa ngày 19, vì bị nước ròng vào ngày 18 và tàu phải bỏ neo ở vịnh Lower Bay để chờ nước lên.

Bạn đọc hãy thử tưởng tượng tâm trạng của bà Blavatsky! Bà quở trách, quát tháo vị thuyền trưởng, viên hoa tiêu, các kỹ sư, chủ tàu, và cả những con nước thủy triều lên xuống!

Sau hơn hai tuần vượt Đại Tây Dương, vào ngày đầu năm 1879, tàu chúng tôi tiến vào hải phận Anh trong một biển sương mù dày đặc, cũng giống như cái tương lai hãy còn mờ mịt của chúng tôi. Sáng hôm sau, tàu cập bến Gravesend.[2] Tại đây chúng tôi đáp xe lửa đi London, và thế là kết thúc giai đoạn đầu của cuộc hành trình.

Đến thủ đô Anh quốc, chúng tôi được tiến sĩ Billing và phu nhân tiếp đón nồng hậu tại tư gia của họ ở vùng ngoại ô Norwood Park. Ngôi nhà này đã trở thành trung tâm qui tụ tất cả những bạn đạo và thư tín viên của chúng tôi ở London kể từ lúc đó.

Ngày 15 tháng 1, tôi chủ tọa một phiên họp của xứ bộ Thông thiên học Anh quốc để bầu cử một Ban chấp hành và bàn về nhiều vấn đề linh tinh khác.

Thời gian chúng tôi ở London hoàn toàn bận rộn với những công việc của Hội, tiếp khách và viếng thăm Viện Bảo Tàng Anh cùng nhiều nơi khác. Ngoài ra cũng có những dịp biểu diễn phép mầu của bà Blavatsky và những buổi họp đàn với bà Hollis-Billing và một vong linh mệnh danh là “Ski” mà toàn thể giới Thần linh học đều biết.

Diễn biến kỳ diệu nhất trong thời gian chúng tôi ở London là việc gặp gỡ một vị chân sư khi tôi và hai bạn đạo cùng nhau dạo chơi trên đường Cannon Street.

Sáng hôm đó, sương mù dày đặc đến nỗi người ta không nhìn thấy bờ bên kia đường, và cả thành phố đều hoàn toàn mờ mịt. Hai bạn tôi nhìn thấy ngài trước nhất, còn tôi lúc ấy mải lo nhìn quanh nên không để ý. Khi hai bạn tôi thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên, tôi mới quay đầu nhìn lại và bắt gặp cái nhìn của chân sư. Khi ấy ngài cũng vừa quay đầu nhìn lại đằng sau.

Tôi nhận ra ngài không phải như một người quen biết thường, mà là nhận ra gương mặt của một đấng cao cả, vì gương mặt ấy khi người ta đã gặp một lần thì không bao giờ có thể lầm lẫn. Cũng như ánh sáng huy hoàng chói rạng của mặt trời so với ánh sáng nhẹ nhàng êm dịu của mặt trăng, vốn có một sự khác biệt rõ ràng giữa sự sáng sủa dịu hiền trên gương mặt một người hiền lương của thế tục so với sự xán lạn huy hoàng rực rỡ trên gương mặt của một vị chân sư, vì gương mặt ấy phản ảnh cái ánh sáng bên trong của một tinh thần đã thức tỉnh về phương diện tâm linhhoàn toàn giải thoát.

Chúng tôi ba người cùng dạo chơi trong thành phố và cùng về một lượt, nhưng khi vừa bước vào nhà thì đã nghe bà Billing và bà Blavatsky nói cho chúng tôi biết rằng chân sư đã đến đây và ngài có nói đã gặp chúng tôi đi chơi ngoài phố. Ngài cũng có nêu tên cả ba người.

Câu chuyện của bà Billing thuật lại rất thú vị. Bà nói rằng cửa trước vẫn đóng và khóa chặt như thường lệ, và không ai có thể vào nhà mà không reo chuông báo hiệu. Tuy nhiên, khi bà rời khỏi phòng khách đi qua hành lang để đến phòng bà Blavatsky thì bà suýt đụng phải một người lạ mặt hình dung cao lớn, đứng sững ngoài hành lang trước cửa buồng của bà Blavatsky.

mô tả người ấy như là một người Ấn Độ có tác phong cao quý, với đôi mắt sáng và cái nhìn như soi thấu lòng người. Lúc ấyngạc nhiên đến nỗi không thốt ra được môt lời nào, nhưng người lạ mặt nói: “Tôi muốn gặp bà Blavatsky”, và tiến về phía cửa phòng của bà Blavatsky.

Bà Billing đích thân mở cửa cho ngài và mời ngài vào. Ngài bước vào phòng, tiến đến gần bà Blavatsky, chào bà theo cung cách của người phương Đông, và bắt đầu nói chuyện với bà Blavatsky bằng thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ đối với bà Billing, tuy rằng bà này, với tư cách một người đồng tử công cộng với nhiều năm thực nghiệm, đã từng tiếp xúc với đủ mọi hạng người của nhiều xứ khác nhau.

Lẽ tự nhiên là bà Billing đứng dậy để bước ra ngoài, nhưng bà Blavatsky mời bà ở lại và bảo bà đừng để ý về việc hai người nói chuyện với nhau bằng một thổ ngữ lạ, vì họ cần thảo luận với nhau về một việc đạo sự trên phương diện huyền linh. Tôi không biết là người khách Ấn Độ bí mật này có trợ giúp thêm thần lực cho bà Blavatsky hay không, nhưng khi ngồi vào bàn ăn tối hôm đó, bà làm cho vị nữ gia chủ rất vui mừng thích thú khi thò tay xuống dưới mặt bàn rồi lấy lên một ấm trà Nhật Bản bằng sứ rất đẹp, dường như là theo lời yêu cầu của chủ nhà, tuy rằng tôi không chắc lắm về chi tiết này.

Ngày 15 tháng 1, chúng tôi sửa soạn đến Liverpool để đáp tàu “Speke Hall” đi Ấn Độ qua ngã Địa Trung Hải, Hồng Hải và Ấn Độ Dương rồi thẳng vào Bombay.

Đúng một tháng sau, ngày 15 tháng 2, chúng tôi đã vào hải phận Ấn Độ và sáng hôm sau tàu cập bến hải cảng Bombay.

Đêm hôm đó, tôi đã ngồi trên boong tàu đến một giờ sáng để ngắm nhìn bầu trời xanh biếc hùng vĩ của xứ Ấn Độ, và căng mắt nhìn lên bờ để mong thấy được ánh sáng đầu tiên của thành phố Bombay.

Sau cùng, từ xa một ngọn đèn nhỏ xuất hiện trên mặt biển, và tôi liền trở về ca-bin để thân xác mỏi mệt được nghỉ ngơi chờ đón những công việc của ngày mai.

Trước khi mặt trời mọc, tôi lại trở lên boong tàu, và khi chiếc tàu lướt trên mặt nước, tôi ngắm nhìnthưởng thức cảnh tượng hải cảng Bombay hiện ra trước mắt tôi. Động Voi (Elephanta Cave) ngay trước mặt là địa điểm đầu tiên mà chúng tôi muốn xem, vì đó là kiểu mẫu điển hình của xứ Ấn Độ cổ xưa, tức đất Thiên Trúc thiêng liêng cổ kính của muôn đời (Bharata-Varsha) mà chúng tôi vẫn kính ngưỡng tận đáy lòngước mong được nhìn thấy sự phục sinh nơi xứ Ấn Độ ngày nay.

Nhưng than ôi! Khi chiếc tàu lượn vòng quanh ngọn đồi Malabar Hill thì mơ ước của chúng tôi liền tiêu tan như mây khói. Cảnh tượngchúng tôi thấy ngay trước mắt là một xứ Ấn Độ tân thời với những dinh thự, lầu đài nguy nga tráng lệ, lồng trong cái bối cảnh xinh tươi của những công viên được chăm sóc lịch sự theo kiểu mẫu du nhập từ Anh quốc, và bao phủ bằng tất cả những dấu hiệu của sự giàu có sung mãn thu hoạch được bằng các dịch vụ kinh doanh thương mãi!

Xứ Tây Vực cổ kính của Elephanta[3] xa xưa nay đã bị xóa nhòa bởi sự lộng lẫy huy hoàng của một nền kiến trúc mới, trong đó triết họctôn giáo không có dự phần, và lòng tôn sùng nhiệt thành nhất được đặt vào hình ảnh của thần tượng Nữ hoàng trên tờ giấy bạc Ru-pi!

Bây giờ chúng tôi đã quen với thực trạng, nhưng lần đầu tiên thì cảnh tượng đó đã gây cho chúng tôi cảm giác đau lòng của sự thất vọng chua cay. Tàu chưa bỏ neo cập bến thì đã có ba người Ấn sắc phục chỉnh tề đến tìm chúng tôi. Đó là Mulji Thackersey, Krishnavarma và Sitaram, đã gia nhập Hội Thông thiên học bằng thư từ và được cấp chứng thư của Hội. Ba người này đã ngủ đêm trên một chiếc ca-nô nhỏ để đợi tàu cập bến và lấy làm vui mừng được tiếp đón chúng tôi, cũng như chúng tôi rất vui mừng khi được đến đất nước của họ.

Chúng tôi bốn người cùng xuống ca-nô với họ để vào bờ. Khi vừa lên đất liền, cử chỉ đầu tiên của tôi là cúi rạp xuống hôn bậc tam cấp bằng đá, một hành động chiêm bái do bản năng tự nhiên thúc đẩy! Đây là giờ phút chờ đợi từ lâu, chúng tôi đã thật sự được đặt chân lên dải đất thiêng liêng, nơi đất lành của các chân sư, quê hương của các tôn giáo cổ từ nghìn đời, xứ sở của những huynh đệ đồng môn cùng một lý tưởng tâm linh với chúng tôi, và được cùng sống chết với họ là tất cả những gì chúng tôi có thể mong ước.

Tất cả những gì người ta nói với chúng tôi trên tàu về những thói hư, tật xấu của người Ấn như sự nhu nhược tinh thần, thói a dua, nịnh hót, bợ đỡ, sự bất trung bất tín... đều đã bị quên hết cả. Đó là vì chúng tôi thương yêu họ, vì những truyền thống tổ tiên của họ, và thậm chí còn vì những điểm thiếu sót bất toàn của họ nữa. Nói đúng hơn, chúng tôi sẵn lòng thương yêu họ bất luận họ là như thế nào. Ít nhất là đối với tôi, cái cảm nghĩ đó vẫn còn nguyên vẹn cho đến tận ngày nay. Tôi cảm thấy thật sự rằng dân tộc họ là dân tộc của tôi, quê hương xứ sở họ là quê hương xứ sở của tôi: ước mong sao những ân huệ của các đấng chân sư minh triết luôn luôn đến với họ và che chở họ mãi mãi!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13588)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13737)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22214)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21871)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27379)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17775)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11740)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12329)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25248)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23276)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28576)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22771)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25710)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22293)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13990)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13434)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22474)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26370)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18475)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18961)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34509)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27377)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28423)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21375)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14897)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19214)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10619)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18574)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15662)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13183)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13422)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14026)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11792)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11632)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11342)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11890)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19945)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12395)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13941)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13272)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31980)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13436)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12758)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13332)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11903)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21866)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11094)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12901)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant