Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

IV.

10 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8721)
IV.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG MƯỜI BẢY: DAMODAR BIỆT TÍCH

IV.

Tháng tư năm ấy, tôi có buổi hội kiến với một nhà chiêm tinh Bà-la-môn, người đang sở hữu một quyển sách rất cổ xưa viết trên lá kè, gọi là Bhima Grantham. Những lời tiên tri mà ông ta rút ra từ bộ sách này đã làm tôi vô cùng ngạc nhiên. Những lời tiên tri họa phước đều không có giá trị cho đến khi thật sự ứng nghiệm, nhưng khi đã ứng nghiệm rồi thì chúng lại có một tầm mức quan trọng như là những bằng chứng của khả năng tiên tri tiên giác trong con người. Bởi vậy, tôi có thói quen ghi chép làm tài liệu tất cả những gì tôi được nghe về vấn đề ấy, để có thể nêu ra vào đúng lúc khi những lời tiên tri đã ứng nghiệm.

Nhiều bạn đạo có cho tôi biết rằng họ đã được nhà tiên tri này tham cứu trong bộ sách cổ thư đó và nói lên những chi tiết rất chính xác về cuộc đời của họ, và tiên tri về những kế hoạch, dự tính của họ mà về sau đã tỏ ra vô cùng ứng nghiệm. Họ cũng đã được nhà chiêm tinh cho phép kiểm chứng lại những lời tiên tri ấy bằng cách đích thân tra cứu trong bộ sách. Hơn nữa, các bạn đạo còn cho tôi biết rằng trong khi tra cứu, họ thấy trong sách ấy có ghi nhận mối tương quan của họ với Hội Thông thiên học, và ngoài ra, quyển sách còn có chứa đựng nhiều điều tiên tri về Hội Thông thiên học nữa. Vì lẽ đó, họ đã sắp đặt một cuộc hội kiến giữa nhà chiêm tinh với tôi, nhưng sự việc đã gặp rất nhiều khó khăn và chỉ được thực hiện sau khi đã vượt qua những sự chống đối của người này về việc hội kiến với một người Âu Tây. Dầu vậy, ông ta cũng chưa quyết định dứt khoát cho đến sau khi đã tra cứu lại trong quyển sách, và ghi nhận ngày giờ chỉ định cho cuộc họp mặt, số người được phép tham dự, và vị trí cùng phương hướng chỗ ngồi của nhà chiêm tinh và của tôi.

Đến ngày giờ đã định, chúng tôi ngồi xếp bằng trên chiếu trải dưới đất, theo kiểu Ấn Độ. Khi cái bọc vải gói quyển sách được mở ra, thì đó là một quyển sách cổ, chữ khắc trên lá kè bằng một cây bút nhọn.

Tôi nhận thấy quyển sách rất cũ, cạnh sách đã phai màu và nhàu nát, những chữ viết đã đen sậm với thời gian. Quyển sách được để dựng đứng trước mặt tôi, những bìa lá ngửa lên trên, với một sợi dây buộc lá xuyên qua các lá đã soi sẵn trên các lá kè mà một đầu dây còn thừa và ló ra ngoài. Nhà tiên tri bảo tôi cầm lấy đầu dây này, để nó vào giữa bất cứ hai lá kè nào do tôi chọn, và mở quyển sách ra ở chỗ đó.

Tôi làm y theo lời, và lúc bấy giờ nhà chiêm tinh mới đọc những chữ viết trên trang đó và những trang sau. Quyển sách tiên tri viết: “Đương sự không phải người Ấn Độ, mà là người ngoại quốc. Y sinh ra vào lúc sao Thái Âm lọt vào chòm sao Rua (Pléiades), với dấu hiệu sư tử ở vòng cung đi lên.”

Tiếp theo đó là vài điểm chi tiết nói về những sự hy sinh mà tôi đã làm vì mục đích phụng sự công ích xã hội. Kế đó, quyển sách nói tiếp: “Cùng với một bạn đồng môn, đương sự tổ chức một Hội để truyền bá giáo lý huyền môn (Brahma Gnyanum). Người bạn đồng môn ấy là một người nữ, có năng lực mạnh mẽ, thuộc dòng quí tộc, và cũng như đương sự, là người nước ngoài. Tuy sinh trưởng nơi quyền quí, người nữ ấy cũng từ bỏ tất cả, và đã cùng theo đuổi một đường lối hoạt động tương tự trên ba mươi năm. Tuy nhiên, nghiệp quả khiến cho bà phải chịu nhiều gian truân, đau khổ; bà bị người đồng chủng ghét bỏ, mặc dù bà đã lao công tổn sức làm việc vì sự ích lợi cho họ.”

Kế đó, quyển sách nói về hai người da trắng lúc đầu rất thân thiện, nhưng về sau đã phản bội, đặt chuyện công khai mạ lỵ, bêu xấu bà, và âm mưu làm cho công chúng nghi ngờ sự chân chính của phong trào Thông thiên học. Quyển sách tiên tri lại tiếp tục: “Nhiều phép lạ nhiệm mầu đã được thực hiện liên quan đến Hội Thông thiên học, và những thư từ mà các nhà sáng lập nhận được của các đấng chân sư, đã bị đem ra công bố một cách ngu xuẩn dại dột. Đó chính là nguyên nhân của tất cả những sự khó khăn rối rắm hiện nay.”

Kế đó, tiếp theo lời tiên tri rằng Hội Thông thiên học sẽ tồn tại lâu dài sau khi tôi chết, và thật là một điều ngạc nhiên, vì hai người bạn có mặt cũng không biết gì hơn nhà chiêm tinh, quyển sách nói về một cuộc hội họp riêng tư giữa tôi với vài người khác (tại tư gia của Bahadur Ragunath Row) vào ngày trước đó, với đề tài thảo luận, và nói một cách chính xác về kết quả cuộc hội họp. Quyển sách ấy nói: “Hội Thông thiên học hiện đang trải qua một chu kỳ hắc ám, đã bắt đầu từ bảy tháng và mười bốn ngày vừa qua, và sẽ còn kéo dài thêm chín tháng và mười sáu ngày nữa, tổng cộng là một thời gian đúng mười bảy tháng.”

Đếm ngược trở về dĩ vãng kể từ ngày xem bói, là thời kỳ trong năm 1884 mà bà Blavatsky bị sự tấn công của các nhà truyền giáo. Điều ấy xác nhận lời tiên tri trong quyển sách là đúng. Cũng kể từ ngày ấy tính tới với sự diễn biến của các việc xảy ra, lời tiên tri nói về sự chấm dứt chu kỳ hắc ám của Hội Thông thiên học và sự bắt đầu một chu kỳ sáng sủa tốt đẹp hơn cũng đã ứng nghiệm.

Về vấn đề này, đương nhiên lại trở lại trong trí tôi câu hỏi thường được đưa ra về sự tin tưởng của tôi đối với khoa chiêm tinh. Tôi phải nói rằng tôi vẫn chưa có đủ bằng chứng để đảm bảo lời nói của tôi rằng tôi tin hay không tin. Nhiều sự việc thuộc về kinh nghiệm của người khác, vài sự việc trong kinh nghiệm của chính tôi, có khuynh hướng chứng minh sự thật của khoa học huyền bí này, nhưng vẫn chưa đủ để cho một người thận trọng có thể dùng làm nền tảng cho một sự tin tưởng tuyệt đối. Tôi còn chờ đợi, và sẵn sàng chịu thuyết phục, nhưng cũng nhất định không nói rằng tôi tin, trừ phi tôi gặp một trường hợp hoàn toàn thỏa đáng để cùng bàn luận với một hội đồng những học giả thông minh sáng suốt và cùng đi đến một kết luận chung.

Nhà chiêm tinh, hay quyển sách bói của ông ta, có đưa ra một lời tiên trithỉnh thoảng người ta còn phải nhắc lại như một sự thí nghiệm của khoa bói này. Ông ta nói rằng, vào lúc tôi từ trần, Hội Thông thiên học sẽ có một trăm năm mươi sáu Chi hội lớn, không kể những Chi hội nhỏ, với tổng số độ năm ngàn hội viên. Nhiều Chi hội sẽ xuất hiện và biến mất, nhiều hội viên cũng đã đến rồi đi trước kỳ hạn đó.”

Chính tôi cũng sẽ còn sống thêm được hai mươi tám năm, năm tháng, sáu ngày và mười bốn giờ nữa kể từ ngày hôm nay (tức là ngày 3 tháng 4 năm 1885), và như thế tôi sẽ còn sống đến sáng sớm ngày 9 tháng 9 năm 1913. Lời tiên tri này hãy còn thuộc về tương lai, để cho người nào còn sống sót sau khi tôi chết sẽ kiểm chứng lại.

Vì tôi chỉ ngồi nghe một cách khách quan chứ không chấp nhận mù quáng những sự tiết lộ trong quyển sách bói cổ Bhima Grantham và vì tôi không có thời giờ để xem xét tỉ mỉ quyển sách ấy trong cuộc hội kiến với nhà chiêm tinh, nên sau đó tôi đã cùng đi với Ananda đến Mylapore để tìm gặp lại ông ta. Ông ta để cho tôi cầm lấy và quan sát kỹ lưỡng quyển sách tùy ý muốn.

Nó chứa đựng ba trăm câu trả lời cho những câu hỏi viết bằng bút sắt nhọn trên lá kè. Có lẽ nó đã xưa đến năm trăm năm, và viết bằng chữ Telugu. Dường như không ai có thể nghi ngờ rằng đó là một “ngụy thư”. Tuy nhiên, có điều lạ kỳ là chỉ trong số ba trăm câu trả lời đó, nhà chiêm tinh đã tìm thấy một số liên quan đến lịch sửđịnh mệnh của Hội Thông thiên học. Phải chăng những lời tiên tri đó đã đợi đến năm trăm năm sau mới được tiết lộ cho người đến xem vận mệnh, khi người này xuất hiện vào năm 1885? Điều đó có vẻ vô lý, tuy vậy những chi tiết của cuộc hội kiến đã được tường thuật lại một cách trung thực, và lời tường thuật của tôi chắc chắn sẽ được bạn Subiah Chetty xác nhận là đúng thật như mọi việc đã xảy ra.

- HẾT -




[1] Tức Tổng thống Rutherford B. Hayes (1822-1893), là Tổng thống thứ 19 của Hoa Kỳ, cầm quyền từ năm 1877 đến năm 1881.

[2] Bến cảng nằm ở Gravesham Borough, Kent, miền đông nam Anh quốc.

[3] Elephanta: kiến trúc động đá cổ xưa, từ khoảng thế kỷ 8, được tạo hình thành các điện thờ các vị thần. Động đá lớn nhất (Great Cave) có chu vi vuông vức mỗi bề 40 mét và cao đến 5 mét.

[4] Bà Blavatsky đã nhập quốc tịch Mỹ tại New York vào tháng 7 năm 1878.

[5] Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ William Maxwell Evarts (1818-1901), phục vụ dưới quyền Tổng thống Rutherford B. Hayes từ năm 1877 đến năm 1881.

[6] Theo phong tục Ấn Độ thời cổ xưa cho đến thời gian gần đây, người con gái đã đính hôn, dẫu rằng chưa xuất giá vẫn được xem như gái đã có chồng và chỉ biết có vị hôn phu là chồng mình thôi, không thể kết hôn với người nào khác suốt cả cuộc đời.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10202)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11259)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13596)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13750)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22229)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21880)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27396)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17807)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11744)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12332)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25254)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23298)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28602)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22788)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25732)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22318)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14007)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13446)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22504)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26413)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18496)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18978)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34535)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27403)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28440)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21408)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14911)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19225)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10624)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18584)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15669)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13198)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13431)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14033)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11797)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11637)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11348)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11906)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19954)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12402)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13946)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13279)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 32001)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13447)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12761)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13341)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11907)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21879)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11103)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12912)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant