Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

III.

10 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8172)
III.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG HAI: HÀNH TRÌNH SANG ẤN ĐỘ

III.

Những đường phố của Bombay có một tính chất đặc biệt Đông phương làm cho chúng tôi vô cùng thích thú. Những dinh cơ nguy nga đồ sộ, những sắc phục màu mè sặc sỡ của dân bản xứ gồm đủ mọi thành phần vô cùng phức tạp, những xe cộ hình dạng dị kỳ, cái cảm giác mới mẻ lạ lùng mà toàn thể cảnh tượng đó gây ra nơi thẩm quan mỹ thuật của chúng tôi, và niềm phúc lạc thần tiên được đạt tới mục đích cuộc hành trình sau chuỗi ngày khắc khoải chờ mong kéo dài, để đến được dải đất của những dân tộc mệnh danh “ngoại đạo” thân yêu của chúng tôi. Để tiếp xúc và sống chung với họ, chúng tôi đã vượt qua bao vùng biển cả trùng dương và chạm trán với bao cơn giông tố bão bùng. Tất cả những cảm giác, ấn tượng sống động đó làm cho lòng chúng tôi tràn ngập một niềm sung sướng hạnh phúc khôn tả.

Chiều ngày 17 tháng 2, một cuộc tiếp tân được tổ chức tại tư gia một bạn đạo với 300 quan khách được mời đến để gặp gỡ chúng tôi. Như thường lệ, trong những dịp này có đọc diễn văn chúc mừng, với những vòng hoa choàng vào cổ và nước hoa rẩy vào người chúng tôi theo phong tục bản xứ.

Bà Blavatsky, ông Wimbridge, ông Scott và tôi đều có đáp từ tùy theo khả năng và cảm hứng của mỗi người, và cơn xúc động sâu xa trong lòng đã khiến tôi rơi nước mắt!

Ngày hôm sau, chúng tôi được mời tham dự cuộc lễ kỷ niệm “Shivaratri” của Ấn giáo tại Động Voi (Elephant Cave). Sau đó, hằng ngày đều có quan khách dồn dập đến viếng thăm chúng tôi càng lúc càng đông, trong số đó có các gia đình cư sĩ tại gia theo Parsi (Bái hỏa giáo), Ấn giáo, và các tu sĩ xuất gia, tăng lữ Kỳ-na giáo (Jain) v.v...

Có những mâm lễ vật hoa quả được gửi đến tặng chúng tôi kèm theo thông điệp chào mừng. Một đêm văn nghệ đặc biệt với vở kịch Ấn Độ “Sitaram” được trình diễn cho chúng tôi xem tại Hí Viện Elphinstone.

Ngày 7 tháng 3, chúng tôi dời đến một ngôi biệt thự nhỏ ở số 108 đường Girgaum. Chúng tôi đã ở luôn tại đây suốt hai năm liền và dùng nơi này làm Tổng hành dinh của Hội Thông thiên học Thế giới.

Bạn Mulji có tìm được cho chúng tôi một thiếu niên giúp việc chừng 15 tuổi, tên Babula. Ai cũng biết thằng bé có lòng trung tín đối với bà Blavatsky hầu như tuyệt đối, cho đến khi bà rời khỏi xứ Ấn Độ.

Mỗi đêm chúng tôi đều có quan khách đến viếng. Trong những dịp đó, những vấn đề triết học, siêu hình và khoa học phức tạp, khó khăn nhất được mang ra thảo luận. Chúng tôi sống trong một bầu không khí tinh thần, trí tuệ, với những lý tưởng tâm linh cao cả nhất.

Trong bối cảnh tinh thần đó lần đầu tiên đã xuất hiện những bạn đạo đồng thanh khí với chúng tôi. Những người này về sau đã có liên hệ mật thiết với sự phát triển của phong trào Thông thiên học.

Trong số những người bạn mới của chúng tôi lúc ấy, có hai anh em MM. và AM. Kunte. Người anh là một giáo sư kiêm học giả ưu tú về môn Phạn ngữ, còn người em là một vị bác sĩ giảng dạy khoa Cơ thể học tại trường Đại học Y khoa ở Bombay.

Nhưng người bác sĩ này về sau đã tỏ ra thiếu hẳn sự can đảm, tinh thần bạc nhược đến mức khiến tôi phải đem lòng khinh bỉ.

Ông ta là một thành viên trong Hội đồng Quản trị của Hội Thông thiên học, được đối xử trên một cương vị bình đẳngthân hữu, quan hệ mật thiết với chúng tôi. Lúc đầu, ông ta rất nhiệt thành với Hội, sẵn lòng trợ giúp và đáp ứng rộng rãi mọi nhu cầu của Hội. Ông sẵn lòng cung hiến nhà ở, tài sản, xe ngựa cho chúng tôi tùy nghi sử dụng, thật sự xem chúng tôi như anh em một nhà.

Bỗng nhiên, một ngày nọ, người giúp việc của ông ta mang đến cho tôi một bức thư từ chức và xin ra khỏi Hội mà không một lời giải thích lý do. Tôi còn không tin ở mắt mình và nghĩ rằng đó hẳn là một trò đùa đáng trách, nhưng khi tôi hối hả đến nhà ông ta thì mới bật ngửa người ra mà nghe ông ta xác nhận rằng đó là sự thật.

Sau nhiều lần cật vấn về lý do của sự việc ấy, tôi mới biết rõ sự thật. Vị Khoa trưởng ở trường Đại học Y khoa đã khuyên ông ta nên chấm dứt mọi liên hệ với chúng tôi, vì Hội Thông thiên học đã bị chính phủ Anh Ấn nghi ngờ là có những ý đồ và mục tiêu chính trị!

Như vậy, thay vì mạnh dạn đứng ra bênh vực chúng tôituyên bố rằng Hội Thông thiên học hoàn toàn không dính dáng gì đến vấn đề chính trị– với tư cáchbạn thân của chúng tôi và là một thành viên Hội đồng Quản trị của Hội, ông ta có thể làm điều đó một cách dễ dàng – thì người bác sĩ giàu có phong lưu này, người mà vấn đề sinh kế không phụ thuộc chút nào vào số tiền lương chết đói của chính phủ, lại chạy thẳng một mạch về nhà và biểu lộ sự hèn nhát của y trên giấy trắng mực đen!

Những ai biết chuyện sẽ hiểu được cái cảm giác khinh bỉ của tôi đối với ông ta kể từ đó về sau. Ngày hôm sau, tôi viết thư cho vị giáo sư Phạn ngữ nói rằng vì người em ruột của ông thấy có điều bất lợi trong việc liên hệ với Hội Thông thiên học, nên tôi hy vọng rằng không một sự e ngại tế nhị nào có thể ngăn cản sự rút lui của ông nếu ông cũng chia sẻ sự băn khoăn ấy. Câu trả lời của ông ta là một lá đơn từ chức viết tay!

Trong một trường hợp khác, tôi có nói với một bạn đạo Ấn Độ mà tôi biết rằng vấn đề sinh kế phải phụ thuộc vào số lương nghèo nàn của chính phủ là 40 ru-pi mỗi tháng: “Này anh Martandras Bhai, giả dụ như sáng mai đến sở làm anh thấy trên bàn giấy một bức thư nói rằng anh hãy chọn một trong hai điều, là chỗ làm của anh và Hội Thông thiên học, bởi vì Hội chúng ta bị nghi ngờ là có âm mưu chính trị, khi ấy anh sẽ nghĩ sao?”

Người bạn này lộ vẻ đăm chiêu nghĩ ngợi, nét mặt cứng rắn như người sắp phải quyết định một việc nghiêm trọng, và kế đó với đôi môi mím chặt và một cái lắc đầu, anh ta đáp một cách quyết liệt: “Tôi... tôi không thể làm trái với lương tri của tôi!”

Tôi bèn ôm chầm lấy anh ta và kêu to với bà Blavatsky ở phòng kế bên: “Qua đây! Bà hãy qua đây để nhìn xem một người Ấn Độ chân chính, một con người can đảm!”

Tên đầy đủ của người này là Martandras Babaji Nagnath. Anh ta là một người Bà-la-môn thuộc tiểu bang Maratha.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10204)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11260)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13599)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13751)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22235)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21881)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27411)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17813)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11744)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12333)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25256)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23301)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28614)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22790)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25735)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22324)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14012)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13449)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22508)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26416)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18496)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18980)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34544)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21413)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14918)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19228)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10627)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18588)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15671)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13201)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13433)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14042)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11806)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11638)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11348)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11908)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19954)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12402)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13948)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13279)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 32005)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13448)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12765)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13342)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11907)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21888)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11104)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12915)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant