CHUYỆN
PHẬT ĐỜI XƯA Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
VẬT TRẢ ƠN, NHƠN TRẢ OÁN
Thuở trước, có một nước lớn kia, nhà vua nhờ học thông kinh điển nên hiểu biết rất sâu xa. Thấy rõ được sự giả tạm của cuộc đời, vua tự nghĩ rằng: “Một mai ta thác rồi, thân thể tan ra thành đất, cuộc danh lợi này
còn có ý nghĩa gì đâu?”
Vua liền từ bỏ cung điện, xa nẻo lợi danh, dứt đường vui sướng, thọ phápxuất gia làm một vị tỳ-kheo. Vị tỳ-kheo này tu hành tinh tấn, nghiêm trì giới luật, vào tận trong rừng sâu núi thẳm để chuyên tâmtu tập, có đến hơn ba mươi năm chưa từng trở lại chốn thị thành.
Một hôm, ngài đang ngồi thiền dưới một gốc cây lớn. Gần đó có một cái hang rất sâu không có đường lên. Bỗng có một anh thợ săn, vì ham đuổi theo mồi mà sẩy chân té xuống hang. Sáng hôm ấy anh vừa bắn được một con
quạ và một con rắn, cùng nhốt trong cái túi vải đeo sau lưng cũng rớt theo xuống hang. Người thợ săn cất tiếngkêu lathảm thiết. Vị tỳ-kheo nghe tiếng kêu cứu dưới hang sâu, vội đi tìm một sợi dây dài thả xuống hang. Anh thợ săn nắm lấy dây mà trèo lên. Nhân khi té xuống hang, cái túi vải bị trầy rách nên quạ và rắn mới ngoi đầu ra được. Vị tỳ-kheo thấy thế liền mở túi cứu hai con vật ấy ra.
Bấy giờ, anh thợ săn quỳ lạy nói rằng: “Mạng sống của tôi may mà còn được là nhờ ơn lớn của ngài. Vậy tôi nguyện trọn đời ghi nhớ và dốc sức đền đáp.”
Vị tỳ-kheo nói: “Ta trước đây là vua một nước lớn giàu mạnh. Lầu đài, dinh thự, bảo vật, cung phi... chẳng có vua nào khác có nhiều hơn ta. Sự
hưởng thụ của ta đã thoả, ta muốn điều chi thì có điều ấy, chẳng khác nào như vừa kêu lên trong rừng này thì liền có tiếng vang dội lại liền. Nhưng ta ngồi trên ngôi vua, thấy triều thần quan tước đầy những sự ganh
ghéttranh giành. Ta lại nghĩ rằng, sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon ngọt, cùng là áo quần chải chuốc, với những ham muốndục vọng là sáu lưỡi gươm chém nát thân này, sáu mũi tên đâm thủng tim mình. Sáu việc nhơ nhuốc xấu xa ấy làm cho con người phải ở mãi trong vòngluân hồi mà chịu đau khổ luôn luôn. Xét như thế cho nên ta mới bỏ ngôi vua mà
đi làm một thầy tu. Ta dốc lòng tìm đạo lýchân chínhtừ bi, không còn tham đắm mùi thế tục, chỉ mong thành chánh quả mà độ chúng sanh ra khỏi nơi khổ hải. Ta đã có tâm nguyện lớn lao đó, đâu còn muốn thọ nhận sự đền đáp của ngươi. Vậy ngươi cứ về nhà đi. Và như có bà conthân thích, hãy khuyên họ nên lánh dữ làm lành, như vậy là được rồi.”
Anh thợ săn nói: “Tôi không phải là người theo đạo Phật, nhưng tôi đã thấy nhiều người ngoại đạo cũng ăn ở hiền từnhư tín đồ nhà Phật, thường
cứu giúp người khác mà không màng đến danh lợi chi cả. Ngài đây đã là một bậc chân tu, tôi muốn mời ngài khi nào ghé vào nhà tôi chơi.”
Rồi anh thợ săn từ biệt ra về. Anh ta đi rồi, con quạ mới nói: “Thưa ngài, tôi không khéo nói những lời biết ơn như người kia, nhưng cũng xin
tìm cáchbáo đáp ơn cứu mạng của ngài.” Rồi nó bay đi.
Khi ấy, con rắn nói: “Tôi tên là Trăn. Ngày sau nếu ngài có việc chi cần
đến, xin cứ gọi tên tôi thì tôi xin đến để đền đáp ơn cứu mạng của ngài.” Rồi nó bò đi.
Về phần anh thợ săn, tuy ngoài miệng nói lời biết ơn nhưng trong lòng nghĩ đến việc sổng mất con quạ với con rắn thì đâm ra bực tức. Đã vậy, là người ngoại đạo nên anh ta vốn không ưa các vị tỳ-kheo tu theo đạo Phật.
Một hôm, vị tỳ-kheo nhân đi ra bìa rừng, mới tiện đường ghé đến nhà anh thợ săn. Anh ta nhìn thấy từ xa, liền gọi người vợ mà dặn rằng: “Lão tỳ-kheo ấy chẳng theo một đạo với ta. Như lão có vào nhà, thì mình cứ nấu cơm cho ngon, nhưng nấu cho thật chậm. Hễ quá ngọ thì lão không thể ăn được.” Chị vợ nghe lời dặn, thấy vị tỳ-kheo vào nhà liền ra bộ ân cần
giữ lại để dọn cơm mà đãi. Song chị ta cố ý làm thật chậm chạp, thành ra trời đã quá ngọ mà cơm nấu chưa xong. Vị tỳ-kheo thấy vậy thì kiếu ra
về.
Về phần con quạ, nó bay về tổ rồi thì cứ nghĩ mãi không biết làm sao đền
đáp ơn cứu mạng của vị tỳ-kheo. Thế rồi. Cuối cùng nó nghĩ ra một cách,
liền bay đến kinh thành, lẻn vào cung vua. Thấy hoàng hậu đang ngủ say,
trên búi tóc có đính một hạt kim cương lớn chói sángrực rỡ. Quạ liền cắp lấy hạt kim cương rồi bay trở về, mang đến dâng cho vị tỳ-kheo.
Hoàng hậu thức dậy, tìm không thấy hạt kim cương quý, mới báo với vua rằng hạt kim cương đã mất rồi. Vua truyền rao trong nhân dân rằng: “Ai tìm được hạt kim cương, nhà vua sẽ thưởng cho một ngàn cân vàng, một ngàn cân bạc, một ngàn con bò và một ngàn con ngựa.”
Vị tỳ-kheo nhận lòng thành của con quạ dâng cho hạt kim cương, nhưng ngài nào có muốn dùng nó làm gì. Nghĩ thương cảnh nhà người thợ săn nghèo khó, ngài mới mang hạt kim cương ấy đến cho anh ta. Ngờ đâu, anh ta đã nghe lệnh vua truyền, nên liền bắt trói vị tỳ-kheo và đem nộp lên vua để lãnh thưởng.
Vua hỏi vị tỳ-kheo rằng: “Hạt kim cương này do đâu mà ngài có?” Vì tỳ-kheo suy nghĩ rằng: “Nếu ta nói thật, e rằng loài quạ trong cả nước này sẽ bị giết cả. Còn như nhận rằng ta lấy hạt kim cương này, thì trái vớiđạo lý cùa người tu hành, không xứng đáng là đệ tử của đức Phật vậy.”
Nghĩ như vậy, ngài bèn im lặng không nói gì cả. Vua tức giận, sai mang ra dùng trượng đánh rất nặng nề. Nhưng dù bị cực hìnhđau đớn, ngài cũng
không đem lòng oán giận ai cả. Ngài khởi lòng từ bi mà khấn nguyện rằng: “Trong trần thế còn có nhiều người ngu si mà hành xử sai với đạo lý như thế, ngày sau không tránh khỏi phải chịu quả báo nặng nề. Ta nguyện tu hànhthành Phật mà cứu vớt cho hết thảy bọn họ.”
Vua thấy ngài chịu đòn đau mà không mở miệng van xin, lại sanh lòng giận
dữ, thét quân hầu rằng: “Bắt lão này đem chôn sống đi, chỉ để ló cái đầu lên thôi, đợi vài hôm sẽ giết.”
Quân lính mang ngài ra chỗ đồng trống, chôn cả thân hình xuống chỉ chừa ló cái đầu lên trên mặt đất. Đêm đến, ngài vừa đói vừa khát nước quá, không biết làm sao mới nhớ lại và gọi tên con rắn. Rắn liền bò đến. Thấy
ân nhânlâm nạn, nó cúi đầu xuống đất lạy chào và hỏi rằng: “Sao ngài lại ra đến nông nỗi này?” Vị tỳ-kheo mới đem đầu đuôi tự sự mà thuật lại. Con rắn khóc, vội bò đi tìm thức ăn nước uống mang đến cho ngài rồi
than rằng: “Lòng từ bi của ngài rộng lớn như trời đất mà sao phải nạn khổ như thế này! Để tôi nghĩ cách cứu ngài.”
Đêm ấy, rắn liền bò vào cung vua cắn chết thái tử. Nguyên là nhà vua chỉ
có một người con trai duy nhất. Rắn cắn chết thái tử rồi mới trở lại chỗ thầy tỳ-kheo, nói rằng: “Nay thái tử đã bị chết vì nọc độc của tôi, nhưng có thuốc giải này của tôi thì có thể cứu người sống lại. Ngài hãy nhận lấy thuốc giải này, ngày mai cứu sốngthái tử thì vua nhân đó có thể tha mạng cho ngài.” Rồi rắn để thuốc giải lại bên cạnh thầy tỳ-kheo mà bò đi.
Sáng hôm sau người ta mới phát hiện thái tử đã bị rắn cắn chết. Nhà vua đau đớnvô cùng, truyền rao khắp nơi rằng: “Như ai cứu sống được thái tử, trẫm sẽ chia cho phân nửa giang san mà hưởng sự vinh hoaphú quí.”
Rồi không ai đến cứu được thái tử, người ta mới đem xác thái tử vào núi để thiêu. Khi khiêng xác đi ngang qua chỗ chôn vị tỳ-kheo, ngài liền gọi
lại mà nói rằng: “Hãy khoan thiêu xác thái tử đã, bần tăng có thể cứu sống được.” Quân hầu nghe mấy lời ấy, liền hối hả tâu lại với vua. Nhà vua mừng lắm, truyền đưa ngay đến chỗ ngài và nói: “Như thật đại đức có thể cứu sốngthái tử, trẫm sẽ tha tội cho đại đức, và trẫm cũng sẽ chia cho ngài phân nửa giang san để cùng làm vua như trẫm.”
Vị tỳ-kheo lấy thuốc giải của rắn cạy miệng thái tử đổ vào, giây lát liền sống lại. Nhà vua mừng vui khôn xiết, truyền chia phân nửa đất nuớc
của mình cho vị tỳ-kheo. Nhưng ngài từ chối không nhận.
Bấy giờ, vua mới ngạc nhiên hỏi rằng: “Bạch đại đức, nếu như ngài không tham lấy phân nửa giang san của trẫm, thì có lý nào ngài lại là người ăn
cắp hạt kim cương kia? Vậy sự thật là như thế nào, xin ngài cho trẫm biết. Vì sao ngài là người hoàn toàntrong sạch lại chấp nhận hình phạt mà không một lời than vãn kêu oan?”
Vị tỳ-kheo liền nói: “Tâu bệ hạ, nếu muốn bần tăng nói ra sự thật, xin bệ hạ giao trọn quyền cho bần tăng được phán xử những kẻ liên quan.” Vua
ưng thuận. Vị tỳ-kheo liền đem hết đầu đuôi câu chuyện kể lại cho vua nghe. Vua nghe rồi trong lòng xúc động, nước mắt tràn ra trên mặt, vừa cảm phụcđức độ của một vị chân tu, vừa hổ thẹn vì sự phán xét sai lầm của mình.
Liền khi ấy, vua truyền lệnh bắt giết cả nhà người thợ săn và tru di cả ba họ. Nhưng vị tỳ-kheo liền nói rằng: “Xin bệ hạ giữ lời đã hứa, giao quyền cho bần tăng được quyết định.” Vua liền hỏi: “Đại đức phán xử thế nào?” Vị tỳ-kheo đáp: “Việc làm thiện hay ác của mỗi người đều tự có quả
báo tương xứng. Bệ hạ không cần phải nặng tay trừng trị. Xin tha cho người này được về quê sinh sống. Và xin đừng làm hại đến loài quạ trong nước này.”
Vua hết lòngcảm phục đức từ bi của ngài, nhân đó liền xin được quy y Tam bảo, thọ trìNgũ giới và tu hành theo Thập thiện đạo.
“Nói Thiền tôngViệt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêm và tọa thiền tại Chánh điện.
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đíchtu hoặcxuất gia là cầu giải thoátsinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
Sống Trong Từng Sát Na là phương phápthực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tậpdựa trêntinh thần Kinh Bốn Lãnh VựcQuán Niệm.
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhụcthành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giảthành tựutừ tâmgiải thoát và bi tâmgiải thoát.
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tửthân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhận là giáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích NữTrí Hải dịch
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duysáng tạo mà là đọc những chứng tíchlịch sửthời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giảxuyên qua những chặng đường thời gian...
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.