SỰ TỪ BỎ
Tsenshab Serkong Rinpoche
Thanh Liên Việt dịch
Tsenshab Serkong Rinpoche là người duy nhất trong bảy phụ tá tâm linh của Đức Đạt Lai Lạt Ma trốn thoát khỏi Tây Tạng. Ngài là Lạt Ma Hóa Thân cao cấp nhất của Tu viện Ganden Jangtse. Với sự thấu triệt mọi Kinh điển và tantra, ngài đã ân cần giảng dạy giáo lý sau đây tại Tushita (1) vào ngày 7 tháng Mười Hai, 1979. Ngài thị tịch năm 1983. Từ Dharma (Pháp) trong
Phạn ngữ, cho trong tiếng
Tây Tạng, có nghĩa là nắm giữ, hay
giữ gìn,
duy trì. Cái gì được nắm giữ, hay được duy trì? Đó là sự tiệt trừ
đau khổ và
thành tựu Giác ngộ.
Pháp thực hiện điều này không chỉ cho
bản thân ta, mà cho tất cả
chúng sinh.
Những
đau khổ mà ta trải nghiệm có hai loại: những
đau khổ mà
loài người chúng ta có thể nhìn thấy tức thì, và những
đau khổ mà
chúng ta không thể nhìn thấy
nếu không có những
năng lực tâm linh. Loại
đau khổ đầu tiên
bao gồm nỗi khổ
liên quan tới tiến trình sinh ra, sự khó chịu của việc đôi khi bị bệnh tật, nỗi khổ được
kinh nghiệm cùng với việc già đi, và nỗi khiếp sợ cái chết.
Những
đau khổ xuất hiện sau cái chết thì một người
bình thường không thể nhìn thấy được. Ta có thể nghĩ rằng sau khi ta chết có lẽ ta sẽ được
tái sinh là một
con người.
Tuy nhiên, điều này không
nhất thiết đúng như vậy. Ta
không có lý do
hợp lý nào để
thừa nhận rằng một sự
tiến triển như thế sẽ xảy ra. Cũng không có chút gì
chắc chắn là
sau khi chết ta sẽ không
tái sinh.
Về loại
tái sinh đặc biệt mà ta sẽ nhận, đây là điều rất khó hiểu, là điều
hiện thời không có trong
phạm vi hiểu biết của ta. Nếu ta phát triển nghiệp
tích cực trong đời này, thì hệ quả
tự nhiên là ta sẽ nhận những
hình thức tái sinh may mắn trong tương lai.
Trái lại, nếu
chúng ta thường gây nghiệp
tiêu cực thì ta sẽ không có một
tái sinh may mắn, mà sẽ trải nghiệm những khó khăn ghê gớm trong những
trạng thái thấp kém của sự
hiện hữu. Điều này thì
chắc chắn. Sự
tái sinh vận hành theo cách này. Nếu ta trồng một
hạt giống lúa mì thì một cây lúa mì sẽ mọc lên. Nếu ta trồng một
hạt giống lúa, một cây lúa được sinh ra.
Tương tự như thế, bởi tạo nghiệp
tiêu cực ta gieo trồng những
hạt giống của sự
tái sinh ở một trong
ba cõi thấp là
chúng sinh địa ngục,
ngạ quỷ và
súc sinh.
Có bốn
trạng thái hay
cõi địa ngục khác nhau: những
địa ngục nóng, lạnh,
lân cận và không
thường xuyên. Nếu
phân chia thêm nữa thì có tám
địa ngục nóng khác nhau.
Địa ngục đầu tiên là ‘Địa ngục
Sống lại.’ Nếu nói một cách
tương đối thì đây là một
địa ngục ít
đau khổ nhất. Để hiểu được mức độ của nỗi khổ được trải nghiệm ở đây, ta có thể
hình dung rằng nỗi
đau khổ của một người bị
mắc kẹt trong một đống lửa lớn thì còn quá nhẹ nếu so với nỗi khổ của
chúng sinh trong
địa ngục nóng đầu tiên. Mỗi
địa ngục ở dưới ‘Địa ngục Sống lại’ có một mức độ
đau khổ dữ dội càng lúc càng tăng lên.
Mặc dù
chúng ta không thể thấy được những
đau khổ của các
ngạ quỷ và
chúng sinh trong
địa ngục, nhưng mắt ta có thể nhìn thấy những
đau khổ của
súc sinh. Nếu ta tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu
bản thân ta bị
tái sinh trong loài
súc sinh, ta có thể nhìn những con vật ở quanh ta và
nghĩ tưởng rằng ta sẽ giống chúng biết bao khi phải mang
thân phận của chúng. Pháp là cái gì
kềm chế ta và
bảo vệ ta khỏi phải trải nghiệm
đau khổ trong những cõi thấp này.
Toàn bộ bánh xe của sự
tái sinh,
toàn bộ vòng
luân hồi sinh tử, đều có
bản chất đau khổ. Pháp là cái gì
bảo vệ ta
thoát khỏi mọi nỗi khổ
sinh tử. Hơn nữa, Pháp mahayana, những
giáo lý của
Đại thừa, mang lại sự
che chở không chỉ cho
bản thân ta mà còn cho tất cả
chúng sinh.
Trong
Phật Giáo ta nghe
nói nhiều về ba
bảo vật của sự nương tựa (
Tam Bảo) – Phật, Pháp và
Tăng Đoàn.
Bảo vật đầu tiên gồm tất cả những bậc giảng dạy Pháp, là những đấng đã
hoàn toàn giác ngộ.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni - đấng
chuyển Pháp Luân lần đầu tiên tại Varasani (
Ba la nại) bằng việc giảng dạy bốn
chân lý cao quý (
Tứ Đế) - thì quan trọng nhất đối với
chúng ta.
Chân lý cuối cùng trong
Tứ Đế –
chân lý của
con đường (
Đạo Đế) – là Pháp được
thực hành để
thành tựu sự giải thoát. Đây là đối tượng
quy y được gọi là
Pháp Bảo.
Việc
thực hành Pháp đòi hỏi hai điều:
nhận ra cội gốc của nỗi
đau khổ trong
sinh tử và tiệt trừ cội gốc này. Cội gốc của vòng
luân hồi sinh tử là gì? Đó là sự bám chấp rằng một cái ngã thực sự
hiện hữu và những
hiện tượng cũng thực sự
hiện hữu.
Chúng ta cần phải phát triển một sự
nhàm chán đối với sự bám chấp này, là cái đã mang lại cho ta mọi
đau khổ. Ta phải phát triển một sự thấu hiểu về cách
đối trị thái độ bám chấp vào sự
hiện hữu thực sự này. Cách
đối trị này là
trí tuệ của sự
vô ngã hay sự phi-đặc tính. Chính việc thấu hiểu sự
vô ngã này sẽ làm cho ta
thoát khỏi đau khổ.
Những
đau khổ mà ta
kinh nghiệm trong vòng luân hồi không xảy ra mà không có một
nguyên nhân. Chúng được tạo nên bởi những
mê lầm và nghiệp do những
mê lầm tạo ra. Cội gốc của mọi
mê lầm và nghiệp là sự
chấp ngã. Vậy tại sao ta không phát triển sự
đối trị trong
dòng tâm thức của ta? Tại sao ta không thấu hiểu sự vô ngã? Một
lý do là ta không đủ
tỉnh giác về cái chết và sự
vô thường.
Sự sinh ra chỉ có thể
đưa tới một
hậu quả duy nhất là cái chết.
Chắc chắn là
chúng ta sắp chết. Không có
một sinh loài nào mà
cuộc đời họ không
kết thúc bằng cái chết. Người ta thử nhiều
phương pháp để
ngăn ngừa cái chết xảy ra, nhưng không thể được. Không loại thuốc nào có thể chữa cho ta khỏi chết.
Chỉ nghĩ: “Tôi sắp chết,” không phải là cách thức
đúng đắn để suy niệm về cái chết.
Dĩ nhiên là
mọi người sắp chết, nhưng chỉ nghĩ về
sự kiện này thì
không thật hiệu quả. Nó không phải là
phương pháp đúng đắn. Cùng cách đó, chỉ
suy nghĩ về
sự kiện ta sắp bị tan rã và suy hoại, ta sắp bị thối rữa, thì không đủ. Điều
chúng ta phải
suy nghĩ là làm cách nào
ngăn ngừa sự
suy vi của ta.
Nếu
chúng ta nghĩ về nỗi
sợ hãi xảy ra vào lúc chết và về cách
giải trừ nỗi sợ ấy, thì
sự thiền định của ta về cái chết sẽ có
hiệu quả. Những người từng tích tập nhiều nghiệp
tiêu cực trong đời họ sẽ trở nên hoảng sợ vào giờ chết. Họ kêu khóc, nước mắt
ràn rụa trên má, miệng chảy nước dãi, họ bài tiết ra quần áo và
hoàn toàn bị
áp đảo. Đây là những dấu hiệu
rõ ràng của nỗi khổ xảy ra vào lúc chết do nỗi
sợ hãi được tạo nên bởi những
hành vi tiêu cực đã làm
trong đời. Ngược lại, nếu
trong đời ta, ta tự
kềm chế không phạm những hành động
tiêu cực,
chúng ta sẽ rất dễ dàng đối mặt với giờ chết. Ta sẽ
kinh nghiệm sự hỉ lạc giống như sự hỉ lạc của một đứa trẻ đang
trở về nhà
cha mẹ nó. Nếu
chúng ta đã tịnh hóa
bản thân thì ta có thể chết thật
hạnh phúc. Nhờ tự chế không làm mười
ác hạnh và
vun trồng mười
thiện hạnh, cái chết của ta sẽ dễ dàng và kết quả là ta sẽ không phải trải nghiệm sự
tái sinh trong một
thân phận đau khổ.
Chúng ta có thể
tin tưởng là sẽ được
tái sinh trong những
trạng thái may mắn hơn. Nhờ gieo trồng
hạt giống của những cây thuốc,
chúng ta sẽ có những loại cây có khả năng chữa bệnh. Bởi gieo trồng
hạt giống của những loại cây
độc hại,
chúng ta sẽ chỉ
cung cấp những trái quả có hại. Nếu ta gieo trồng những
chủng tử của các
thiện hạnh trong
tâm thức ta, ta sẽ
kinh nghiệm hạnh phúc trong những
tái sinh trong tương lai. Ta sẽ có những tình huống
may mắn cả
tinh thần lẫn thể xác.
Giáo lý căn bản này của Pháp – tránh mười
ác hạnh và
vun trồng mười
thiện hạnh – được giảng dạy không chỉ trong
Phật Giáo mà cả trong nhiều
tôn giáo khác, kể cả
Cơ Đốc Giáo.
Chúng ta suy niệm về cái chết và sự
vô thường ra sao? Như đã đề cập ở trên, chỉ nghĩ: “Tôi sắp chết,” thì
không thật ích lợi.
Chúng ta nên nghĩ: “Nếu tôi từng tạo ra bất kỳ điều gì trong mười
ác hạnh, thì vào lúc chết tôi sẽ phải đương đầu với rất nhiều nỗi
sợ hãi và
đau khổ, và kết quả là tôi sẽ nhận một
tái sinh với sự
bất hạnh ghê gớm.
Trái lại, nếu
trong đời tôi, tôi từng làm những việc
đức hạnh, thì vào lúc chết tôi sẽ không trải nghiệm sự
sợ hãi và
đau khổ và sẽ được
tái sinh trong một
trạng thái may mắn hơn.” Đó là cách
đúng đắn để suy niệm về cái chết.
Sự thiền định này không nên
đơn thuần là
tư tưởng ảm đạm,
bi quan: “Tôi sắp chết và không thể làm điều gì về nó.” Đúng hơn, ta nên
suy nghĩ về những gì sẽ xảy ra khi ta chết. “Tôi sẽ đi về đâu sau khi chết? Tôi đã tạo ra những loại
nguyên nhân nào? Tôi có thể làm cho cái chết của tôi
trở thành cái chết hạnh phúc? Làm cách nào? Tôi có thể làm thế nào để những
tái sinh sau này của tôi
trở thành tái sinh hạnh phúc?”
Khi suy niệm về những
tái sinh trong tương lai ta nên nhớ rằng không có nơi nào
trong vòng luân hồi sinh tử là
đáng tin cậy. Cho dù ta có được loại
thân tướng nào,
cuối cùng thì nó cũng phải chết. Ta đọc
trong lịch sử về những người từng sống một trăm năm hay thậm chí một ngàn năm,
tuy nhiên, cho dù những
miêu tả ấy
phi thường tới đâu chăng nữa,
cuối cùng thì ta không thấy có ai mà không phải chết. Bất kỳ loại
thân tướng nào
chúng ta có cũng đều bị
lệ thuộc vào cái chết.
Cũng không có nơi nào ta có thể tới để tránh cái chết. Cho dù ta là ai, khi tới lúc thì ta sẽ phải chết. Khi ấy không có lượng thuốc men,
thần chú hay
thực hành nào có thể cứu giúp được ta. Những cuộc giải phẫu có thể chữa khỏi một vài loại bệnh tật trong
thân thể ta, nhưng không có
phương pháp nào có thể
ngăn ngừa cái chết.
Cho dù ta có loại
tái sinh nào, nó cũng sẽ bị
lệ thuộc vào cái chết. Tiến trình vẫn còn đang
tiếp diễn. Việc suy niệm về
hậu quả dài hạn của những hành động của ta và tiến trình của sự sinh ra, của sự sống, cái chết và sự
tái sinh tiếp nối liên tục ra sao sẽ giúp cho ta phát triển nhiều
thiện nghiệp hơn nữa.
Mặc dù đôi khi ta lập
kế hoạch thực hành Pháp, nhưng ta thường trù tính làm điều đó vào ngày mai, hay những ngày sau.
Tuy nhiên, không ai có thể nói cho ta biết khi nào ta chết. Nếu ta được
bảo đảm rằng
chắc chắn là ta còn sống một trăm năm nữa thì ta sẽ có một quãng
thời gian tự do để sắp xếp việc
thực hành. Nhưng không có gì
chắc chắn là khi nào ta chết. Trì hỗn sự
thực hành của ta là một
việc làm thật
ngu ngốc. Một số người chết trong bụng mẹ ngay cả trước khi ra đời, những người khác chết khi còn là những em bé trước khi học đi. Không có gì
chắc chắn là bạn sẽ sống một
cuộc đời trường thọ.
Thân thể ta rất mỏng manh. Nếu chúng được làm bằng đá hay sắt thì có lẽ chúng có thể cho ta một cảm nhận nào đó về sự
kiên cố. Nhưng nếu ta
xem xét kỹ lưỡng thì ta sẽ
nhận ra rằng
thân thể con người rất
yếu ớt. Nó rất dễ bị
trục trặc. Nó giống như một cái đồng hồ đeo tay mỏng manh được chế tạo từ
vô số bộ phận nhỏ xíu và dễ gãy. Nó không phải là vật
đáng tin cậy. Có nhiều
hoàn cảnh có thể gây nên cái chết của ta:
thực phẩm trở nên
độc hại, vết cắn của một côn trùng nhỏ xíu hay thậm chí vết chích của một chiếc gai độc. Những tình huống nhỏ bé như thế có thể giết chết ta.
Thức ăn và nước uống mà ta dùng để kéo dài
cuộc đời ta có thể
trở thành những tình huống để
chấm dứt nó. Không có gì
chắc chắn là khi nào ta sẽ chết, hay những tình huống nào sẽ gây nên cái chết của ta.
Cho dù ta
cảm thấy chắc chắn là ta sẽ sống một trăm năm, nhưng nhiều năm trong quãng
thời gian đó đã trôi đi và ta đã không
hoàn thành được gì nhiều. Ta tiến gần tới cái chết giống như một người ngủ trên một toa xe lửa,
liên tục tiến càng lúc càng gần tới đích mà không hay biết gì về tiến trình của chuyến đi. Những gì ta có thể làm được để ngăn chặn tiến trình này thì rất ít ỏi. Ta
liên tục tiến càng lúc càng
tới gần cái chết.
Cho dù ta có bao nhiêu tiền bạc,
châu báu, nhà cửa hay
y phục mà ta từng tích tập
trong đời ta, điều đó chẳng tạo nên bất kỳ khác biệt nào vào lúc ta chết. Khi ấy ta sẽ ra đi tay không. Ta cũng không thể
mang theo mình ngay cả một món đồ nhỏ xíu. Chính
thân thể cũng phải bị bỏ lại đằng sau. Thân và tâm tách lìa nhau và
dòng tâm thức tự nó
tiếp tục. Không
chỉ không thể
mang theo ta bất kỳ
của cải nào, ta không thể
mang theo ngay cả
thân thể ta.
Cái gì sẽ
đồng hành với
tâm thức ta sau cái chết? Nếu ta phải rời bỏ thân xác của ta, những bằng hữu và
của cải của ta, thì liệu có người trợ giúp nào hay sự vật nào sẽ cùng đi với
tâm thức ta tới đời sau?
Có một thứ sẽ
đi theo tâm thức sau cái chết: đó là những dấu vết nghiệp mà ta từng tích tập
trong đời này. Nếu ta từng phạm vào bất kỳ điều nào trong mười
ác hạnh, thì một món nợ nghiệp tăm tối sẽ
đồng hành với
dòng tâm thức khi nó
tiến tới sự
tái sinh trong tương lai. Bởi giết hại
chúng sinh,
trộm cắp của cải của những người khác hay đắm mình trong sự
tà dâm, những món nợ nghiệp tối đen từ những
ác hạnh này thuộc về thân sẽ được đặt vào
dòng tâm thức. Bởi
nói dối, vu khống người khác, gây sự
bất hòa trong
mọi người, nói điều
vô nghĩa hay làm hại người khác bằng
lời nói, những món nợ nghiệp tăm tối của những
ác hạnh thuộc về ngữ (khẩu) sẽ cùng
du hành với ta vào lúc chết. Nếu
chúng ta từng có nhiều
tư tưởng tham muốn, thường
ao ước của cải của người khác; nếu ta có
ác ý đối với người nào đó, ước muốn họ bị hại hay mong muốn điều xấu sẽ xảy ra cho họ; hoặc nếu ta từng giữ những
quan điểm lệch lạc, chẳng hạn như ‘không có đời trước hay
đời sau,’ ‘không có nhân và quả,’ ‘không có cái gì gọi là sự nương tựa (
quy y),’ thì những
ác hạnh này thuộc về tâm sẽ phát triển một món nợ nghiệp tối đen, nó cùng đi và hướng dẫn tâm ta tới những
tái sinh sau này.
Nếu ta từng làm những
thiện hạnh và tránh không tạo điều
tiêu cực thì những
hạt giống nghiệp của
năng lực tích cực như thế sẽ
lưu chuyển trên
dòng tâm thức của ta và tạo nên những tình huống
tốt đẹp hơn trong những
đời sau của ta.
Khi ta thực sự
suy nghĩ về tình huống mà ta đang gặp, ta sẽ
quả quyết nỗ lực bằng mọi cách để phát triển nghiệp
tích cực và tiệt trừ nghiệp
tiêu cực. Ta nên
nỗ lực tự tịnh hóa càng nhiều càng tốt điều
tiêu cực, không để lại
đời sau ngay cả món nợ nghiệp nhỏ bé nhất mà ta phải trả.
Ta cần xét xem loại tình huống nào có thể xảy ra trong
luật nhân quả. Có một
câu chuyện về một người có rất nhiều phẩm tính tốt nhưng nói năng thật
cộc cằn. Ông ta
sỉ nhục người khác: “Ông nói như chó sủa.” Kết quả là ông ta bị
tái sinh làm một con chó trong 500 kiếp. Một hành động tưởng chừng nhỏ bé có thể có một
hậu quả rất to lớn.
Tương tự như thế, một
thiện hạnh rất nhỏ có thể tạo nên một kết quả vĩ đại. Có một
câu chuyện về một đứa trẻ dâng một món
cúng dường khiêm tốn cho
Đức Phật và kết quả là nó được
tái sinh là vị vua vĩ đại Ashoka, người đã
xây dựng hàng ngàn
công trình kiến trúc
Phật Giáo và
thực hiện vô số hoạt động siêu phàm.
Việc suy niệm về những loại
ác hạnh khác nhau mà ta từng phạm và những
hậu quả của chúng là một
phương cách hết sức hữu hiệu để
bảo đảm cho
hạnh phúc và niềm vui của ta. Nếu ta
nghĩ tưởng về nỗi khổ mà
bản thân ta sẽ phải trải nghiệm như
hậu quả của sự
tiêu cực của ta và nhờ đó
phát khởi một
ao ước thật mãnh liệt không muốn phải trải nghiệm loại
đau khổ này thì ta đã phát triển
thái độ được gọi là ‘sự
từ bỏ.’
Việc làm quen với
loại suy tưởng này tự nó là một
hình thức thiền định.
Trước tiên, ta nên phát triển sự
chánh niệm về nỗi khổ
của riêng ta; sau đó ta
mở rộng chánh niệm này tới tất cả các sinh loài. Hãy
suy xét làm thế nào tất cả
chúng sinh đều không ước muốn
đau khổ nhưng lại bị
mắc kẹt trong một tình huống khốn cùng.
Loại suy tưởng này khiến ta
phát khởi lòng bi mẫn. Nếu ta không phát triển ước muốn
thoát khỏi mọi nỗi khổ
của riêng ta, thì làm thế nào ta có thể phát triển ước muốn
chúng sinh thoát khỏi nỗi khổ của họ? Ta có thể
chấm dứt mọi nỗi khổ
của riêng ta, nhưng điều này không mang lại
lợi ích rốt ráo. Ta nên trải rộng ước muốn này tới tất cả
chúng sinh, là những người cũng ước muốn
hạnh phúc. Ta có thể
tu hành tâm thức và phát triển ước muốn
mọi người đều
hoàn toàn thoát khỏi nỗi khổ của họ. Đây là một
phương cách suy tưởng rộng lớn hơn và
lợi lạc hơn nữa.
Tại sao ta nên
quan tâm tới sinh loài khác? Đó là bởi ta đã thọ nhận quá nhiều từ họ. Ví dụ như sữa ta uống phát xuất từ
lòng tốt của những con bò và những con trâu, quần áo ấm
che chở ta không bị gió lạnh
xuất phát từ len của những con cừu và dê, và v.v.. Đây chỉ là một ít ví dụ về
lý do tại sao ta nên
nỗ lực tìm ra một
phương pháp có thể tiệt trừ những
đau khổ của họ.
Cho dù ta làm loại
thực hành nào – trì tụng
thần chú hay mọi loại
thiền định – ta nên luôn luôn
duy trì tư tưởng: “Cầu mong điều này làm
lợi lạc tất cả
chúng sinh.”
Thái độ này cũng mang lại
lợi lạc cho
bản thân ta một cách
tự nhiên. Những tình huống của
đời sống bình thường của ta có thể mang lại cho ta một
nhận thức sâu sắc về điều này. Ví dụ như một người rất
ích kỷ và luôn luôn làm việc vì
tư lợi, anh ta sẽ không thực sự được người khác
ưa thích.
Trái lại, người tử tế và luôn nghĩ tới việc giúp đỡ người khác thì thường được
mọi người quý mến.
Tư tưởng cần được phát triển trong
dòng tâm thức của ta là: “Cầu mong
mọi người được
hạnh phúc và cầu mong không ai phải
đau khổ.” Ta phải
nỗ lực đưa
tư tưởng này vào dòng
suy tưởng của ta bằng cách luôn luôn nhớ tới nó. Điều này có thể
hết sức lợi lạc. Những
chúng sinh trong
quá khứ đã phát triển cách
nghĩ tưởng này
hiện tại là những vị Phật,
Bồ Tát hay
thánh nhân vĩ đại; tất cả những vĩ nhân thực sự của
thế giới đã đặt
nền móng cuộc đời các ngài trên
tư tưởng này. Nếu
bản thân ta có thể
cố gắng phát triển nó thì
tuyệt diệu biết bao!
Hỏi: Có phải chúng con được khuyên là không tự
bảo vệ khi có người cố hãm hại chúng con?
Đáp: Câu hỏi này đưa vào một
chủ đề rất bao quát. Nếu có ai đánh lên đầu bạn bằng một dùi cui hay một cây gậy, câu
trả lời hay nhất là
thiền định rằng
do bởi những
ác hạnh của chính bạn trong
quá khứ nên bạn phải trải nghiệm điều này. Hãy
nghĩ tưởng rằng giờ đây người này đang làm cho món nợ nghiệp
đặc biệt này chín mùi thay vì vào lúc nào đó trong tương lai. Bạn nên
cảm thấy biết ơn vì anh ta đã
giải trừ món nợ nghiệp
đen tối này khỏi
dòng tâm thức của bạn.
Hỏi: Nếu có người tấn công vợ hay con của con là những người chịu sự
bảo vệ của con thì sao? Con không được
bảo vệ họ? Làm như thế có phải là một hành động
tiêu cực không?
Đáp: Vì bổn phận của bạn là phải
bảo vệ vợ và con bạn, bạn phải
nỗ lực để làm điều đó trong một
phương cách càng
thiện xảo thì càng tốt. Bạn phải khôn ngoan. Cách tốt nhất để
bảo vệ họ là không làm hại kẻ tấn công. Nói các khác, bạn cần
tìm ra một
phương pháp để
bảo vệ họ nhờ đó bạn không gây ra bất kỳ sự
tổn hại nào.
Hỏi: Hắn có thể làm hại các con của con nhưng con thì không thể làm hại hắn? Không phải là chúng con có bổn phận
bảo vệ con cái
chống lại những
hành vi man rợ và
độc ác hay sao? Chúng con sẽ
hy sinh cuộc đời mình?
Đáp: Để
xử sự với tình huống này một cách khéo léo, bạn phải
hết sức dũng cảm. Có một
câu chuyện về
một đời trước của
Đức Phật,
trong đời đó ngài là một
hoa tiêu vượt biển cùng một nhóm năm trăm người để
tìm kiếm một kho tàng được chôn dấu. Một người trong nhóm này có
tư tưởng rất
tham lam, và để đánh cắp
toàn bộ châu báu, hắn ta
âm mưu giết chết năm trăm người.
Bồ Tát (
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong
một đời trước) biết rõ điều này và nghĩ rằng để cho tình huống này phát triển là
sai lầm, vì một người sẽ giết cả năm trăm người. Vì thế ngài
phát khởi tư tưởng hết sức dũng cảm là giết chết người này để cứu năm trăm người, sẵn sàng nhận
toàn bộ trách nhiệm của việc
sát sinh. Nếu bạn ước muốn
chấp nhận bị
tái sinh trong một
địa ngục để cứu những
chúng sinh khác thì bạn có một
tư tưởng hết sức dũng cảm. Như thế bạn có thể dấn mình vào những hành động đó, giống như
bản thân Đức Phật đã làm.
Hỏi: Trong
hoàn cảnh như vậy việc
sát sinh có còn bị coi là một
hành vi tiêu cực?
Đáp: Đức Nagarjuna (
Long Thọ) nói trong
tác phẩm Bức Thư
Thân mật của ngài rằng nếu có người phạm vào điều
tiêu cực để
bảo vệ cha mẹ, con cái,
Phật Giáo hay
Tam Bảo, người đó sẽ phải trải nghiệm những
hậu quả. Sự khác biệt nằm ở chỗ bạn có
tỉnh giác về những
hậu quả và có ước muốn nhận chúng vào
bản thân bạn để
bảo vệ vợ và con bạn một cách
vô ngã hay không. Nếu bạn làm hại
kẻ thù thì bạn sẽ
kinh nghiệm một sự
tái sinh đau khổ.
Tuy nhiên, bạn nên ước muốn đối mặt với tình huống này bằng cách
nghĩ tưởng: “Tôi sẽ nhận vào mình nỗi
đau khổ đó và như thế
vợ con tôi sẽ không
đau khổ.”
Hỏi: Như vậy theo
Phật Giáo nó vẫn là một
hành vi phi-đạo đức?
Đáp:
Bảo vệ vợ và con của bạn là một
thiện hạnh, nhưng làm hại
kẻ thù thì phi-đạo đức. Bạn phải ước muốn
chấp nhận những
hậu quả của cả hai điều này.
Hỏi: Ngài nói rằng nếu ta tạo
ác nghiệp ta sẽ phải chịu
đau khổ trong tương lai, nhưng nếu ta làm điều
tốt lành thì
hạnh phúc sẽ
theo sau. Những
thiện hạnh này có thể dẫn tới sự cứu vớt (
che chở)
toàn diện, theo
ý nghĩa là không phải trải nghiệm sự tái sinh?
Đáp: Nếu bạn muốn được cứu vớt, bạn phải
tuân theo những
giáo lý một cách
trọn vẹn và
cẩn trọng. Ví dụ như nếu bạn đang theo
đạo Cơ Đốc, bạn phải
tuân theo giáo lý của Đức Chúa thật toàn hảo. Khi ấy sự cứu rỗi
Cơ Đốc có thể xảy ra.
Một mình Đức Chúa Jesus không thể cứu
chúng ta thoát khỏi tội lỗi;
bản thân ta phải làm điều gì đó.
Nếu không thì tại sao Đức Chúa Jesus đã không nói tới tội lỗi? Nếu
chúng ta tuân theo một cách
đúng đắn những gì Chúa Jesus dạy, thì tôi nghĩ rằng sự cứu rỗi
Cơ Đốc có thể xảy ra. Nếu ta
tuân theo những
giáo lý của
Đức Phật một cách
đúng đắn, thì sự cứu vớt (
che chở) của
Phật Giáo có thể xảy ra.
Tsenshab Serkong Rinpoche
Nguyên tác “Renunciation”
http://fpmt.org/Teachings/more.renunc_serkong.asp
Bản dịch Việt ngữ của
Thanh Liên Chú thích:
1. Tushita:
Trung tâm Thiền định Đại thừa Tushita là
trung tâm FPMT (Hội
Bảo vệ Truyền thống Đại thừa) ở New Delhi,
Ấn Độ.