CHƯƠNG HAI
Những Câu Chuyện
về những Hành Động và Hậu Quả của chúng
Kính lễ đức
Quán Thế Âm !
Đây là những
giáo huấn thực hành sâu xa của
Quán Thế Âm về những hành động làm nhân và những kết quả của chúng là một
phương pháp để
từ bỏ những khổ đau của những
trạng thái khốn khổ của
hiện hữu. Trong những
câu chuyện này, tôi sẽ đưa ra những
giải thích ngắn gọn về những đoạn trong kinh, vì chúng có thể dễ dàng hiểu đối với người thường.
Ngày xưa trong thành phố Khamgya có một
thương gia giàu có, mỗi năm ông giết nhiều
gia súc để làm những lễ cúng. Khi ông sắp chết, trong chúc thư ông ông bảo con ông hãy nên làm như vậy và con ông vẫn làm như vậy hàng năm. Vào một dịp, khi một con bò bị dẫn đến lò mổ thịt, nó rống một tiếng lớn. Một vị
A La Hán chứng kiến điều này với một
vẻ buồn rầu và
ngạc nhiên. Có người hỏi, “Đó là sao ?”, và vị
A La Hán bình thản
trả lời, “Con bò bị đem đi mổ thịt trước kia là người
thương gia giàu có, mỗi năm đã giết nhiều
gia súc để cúng tế và
ý muốn cuối cùng của ông là
việc làm ấy cần
tiếp tục. Ông
tái sanh làm một con bò của
gia đình mình. Bây giờ là lần thứ bảy ông
bị giết như vậy.”
Vị tăng nói với con vật, “Việc này chính là điều mà ông đã tự khởi xướng. Cúng tế là điều ông đã tự
thực hiện, vì đó mà giết nhiều
gia súc. Thế nên tiếng rống nặng nề của ông đâu có làm được gì ?” Đã giết nhiều con bò, ông sanh ra làm bò của
gia đình ông và
bị giết trở đi
trở lại.
Những
hậu quả của một hành động có thể chín trong những
đời sau. Chẳng hạn,
ngày xưa, khi người ta sống rất lâu năm, có một người con của một thuyền trưởng tên là Yajna
lên đường tìm
châu báu.
Tuy nhiên mẹ anh
phản đối và không muốn để anh đi. Đá vào đầu bà, anh ra đi. Sợ rằng không thể tránh những
rắc rối từ
hành vi của mình, anh nhận tám giới điều của người
tại gia, và ra khơi với năm trăm người
đồng hành. Nhưng họ bị đắm tàu và những người khác đều chết. Con của vị thuyền trưởng bám vào một trái cầu bằng đồng và trôi dạt trên biển.
Cuối cùng anh đến một thành phố, như một nơi ở của các vị trời, với một bức vách bằng vàng, ở đó anh được bốn
thiên nữ săn sóc. Nơi đây anh
kinh nghiệm hạnh phúc và
vui thích trong nhiều trăm và nhiều ngàn năm.
Sau đó, anh bỏ đi, và trong một thành phố có một bức vách bằng bạc anh được tám
thiên nữ chăm sóc và
kinh nghiệm hạnh phúc trong hàng trăm và hàng ngàn năm. Rồi anh lại ra đi, và trong một thành phố có một bức vách đá da trời anh được mười sáu
thiên nữ chăm sóc và anh
kinh nghiệm hạnh phúc và
vui thích hàng trăm và hàng ngàn năm. Anh lại ra đi, và trong một thành phố với một bức vách bằng
pha lê anh được ba mươi hai
thiên nữ chăm sóc và
kinh nghiệm hạnh phúc và
vui thích nhiều trăm nhiều ngàn năm. Sau khi rời khỏi đó, anh đến một khu rừng cây có gai với một bức vách sắt. Ở đây anh thấy một người đàn ông, đầu ông này bị rạch đứt bởi một bánh xe gắn những thanh gươm quay tròn. Người này hỏi anh, “Đây là một
địa ngục nhỏ. Anh đã làm điều gì khiến phải đến đây ?” Khi anh kể cho ông nghe
câu chuyện của mình, có vẻ cả hai người đã có cùng một
cách cư xử.
Kinh nghiệm hạnh phúc và
vui thích trên đường đi đến
địa ngục này là nhờ sự giữ tám điều giới của người
tại gia, trong khi bị chém trên đầu bởi những cây gươm là một hình phạt vì đá vào đầu bà mẹ. “Khi vừa nghe tiếng của bạn,
tội lỗi tôi đã hết. Bạn đến giường tôi và hãy nghe theo”, ông nói, rồi qua đời. Bấy giờ con vị thuyền trưởng
sợ hãi, và anh
thiền định về
từ bi với
sự quán tưởng “cho và nhận”. Anh
lễ bái cha và mẹ anh và
cầu nguyện rằng suốt những đời kiếp anh sẽ luôn luôn
thờ phụng cha mẹ. Mẹ anh cũng
thực hiện những việc
đức hạnh và
hồi hướng chúng cho con. Một kết quả là anh ở lại
địa ngục nhỏ này ít hơn sáu mười năm một tí, với bánh xe quay ở đúng trên đầu. Rồi anh qua đời, và dù bánh xe không chạm đến đầu anh,
thỉnh thoảng anh vẫn đau đầu. Có nói rằng người con thuyền trưởng này về sau chính là
Đạo Sư Thích Ca Mâu Ni.
Như thế,
tôn kính Tam Bảo,
cha mẹ, và những vị thầy là rất quan trọng.
Đức Phật có nói, “Không khác gì giữa cách các con đối xử với ta và cách các con đối xử với
cha mẹ, những
sư trưởng và những vị thầy của các con. Những
hậu quả của
cách cư xử của các con không giảm sút
trong đời này hay những
đời sau.”
Nếu bạn dâng tặng một món gì và sau đó
hối tiếc, thậm chí bạn
tái sanh ở nơi
giàu có, về sau bạn sẽ trở nên nghèo.
Ngày xưa có một chàng trai trẻ tên là Drakpa dâng cúng một con bê cho Phật Lokpa Detsen và Tăng của ngài, rồi về sau tiếc nuối đã làm như vậy. Trong tất cả các
kiếp sau đó
ban đầu anh giàu và về sau trở nên nghèo.
Cuối cùng anh sanh ở Rajagrha (thành
Vương Xá), và ngay khi vừa sanh ra, mẹ anh chết. Người ta nói anh sanh nhằm một ngôi sao xấu, và anh bị đem đi bỏ với những
xác chết trong nghĩa địa. Như một kết quả của việc
cúng dường con bê, sữa chảy ra từ vú của một
xác chết và anh không chết. Về sau, anh
xuất gia với Phật
Thích Ca và
đạt đến giải thoát.
Dù
đời người ta có hết, nghiệp của người ta thì không. Dù người ta có đi từ
một đời này qua
một đời khác trong sáu cõi
sanh tử, người ta được sanh
trở lại nơi người ta đã sống trước kia. Ở Sravasti có một chủ
gia đình nghèo chết đi với sự bám luyến vào
gia đình của mình. Ông
tái sanh làm một con trùng trên cái bướu của một con bò đực thuộc về
gia đình đó, và ngay khi mới sanh ra, một con quạ ăn nó. Ông
tái sanh và lại bị ăn như vậy đến bảy lần.
Khi đi
khất thực ở Magadha, Maudgalyayana (
Mục Kiền Liên) đến một người chủ nhà bồng một đứa trẻ trong lòng, đang ăn một con cá, và vứt phần còn lại cho một con chó cái màu đen. “Tôi không có đồ gì để cho ngài”, ông nói. Con cá là cha của người chủ nhà
trong đời trước. Do làm một người đánh cá, cha ông
tái sanh nhiều lần làm cá và
bị giết để ăn. Con chó cái là mẹ ông, bà đã không có hành động
bố thí nào cũng không
giữ giới luật. Bám vào sự
giàu có và
dòng dõi gia đình, bà chết với sự bám luyến và sanh lại nhiều lần như là con chó
giữ nhà cho
gia đình đó. Con bà trước kia là
kẻ thù của bà, kẻ đã giết cha mình vì binh vợ. Do sự bám luyến vào người đàn bà này, anh ta sanh ra trong bụng người đàn bà này. Đó là
câu chuyện do Maudgalyayana kể, làm
rõ ràng vòng sanh tử không có
tự tánh như thế nào.
Ngày xưa có một quan tòa trong triều của một vị vua, làm chứng cho những vay mượn trong vùng đó. Đứa con (của em trai của quan tòa) mượn một số tiền lớn, và đem cho vợ của quan tòa một
của hối lộ để khỏi trả số tiền đã mượn. Bà vợ quan tòa
thuyết phục viên chức này
chấp nhận điều đó. Hai người trong cuộc gặp quan tòa, và ông
nói dối, khiến người kia mất số tiền đã cho mượn. Kết quả, quan tòa trước hết sanh trong
địa ngục, rồi năm trăm đời sanh làm một người to lớn
vụng về, không có mắt, tai hay các
giác quan khác.
Ngày xưa, ba mươi hai người
ăn trộm một con bò và đem nó đến nhà một người đàn
bà già. Con bò biết nó sắp
bị giết, nó cầu rằng, “Các người sẽ
bị giết !” Con bò bị làm thịt, và cùng với người đàn
bà già, những người đó ăn nó. Về sau, người đàn
bà già mua hương, trộn với bơ, và cùng với ba mươi hai người đồng bọn thoa lên một cái tháp. Họ
cầu nguyện rằng trong mọi lần
tái sanh họ sẽ sanh ra như mẹ và những đứa con, có tuổi thọ,
địa vị cao và
giàu có.
Đức hạnh và
tội lỗi chín một cách riêng rẽ. Trong mọi đời của họ, họ được sanh như đã
cầu nguyện, nhưng cả năm trăm lần họ đều bị bò giết cùng một lúc.
Một thời ở Sravasti có một vị vua tên là Prasenajit có một đại thần tên là Kuranga. Người con trai út của thừa tướng có một người vợ tên là Anuradha, một người đàn bà
thông minh cũng được sự chiếu cố của vua. Bà sanh ra ba mươi hai cái trứng nở thành ba mươi hai con trai khỏe mạnh và
can đảm. Một đại thần khác xảo quyệt tung tin những người con trai đó sắp
ám sát vua, thế nên vua gởi đến một số người mạnh mẽ giết hết tất cả họ cùng một lúc. Anuradha
xuất gia làm ni với
đức Phật. Nhà vua là
hậu thân của con bò, người mẹ là người đàn
bà già xưa, và ba mươi hai đứa con là những người trộm bò. Đó là những
hậu quả của việc giết một con bò.
Ngày xưa có một người
giàu có không có con trai, nên ông lấy một người vợ thứ hai, bà này sanh cho ông một con trai. Bà vợ đầu đâm đứa bé và giết nó. Bà chối đã
sát hại nó, và thề một lời
giả dối. Một dịp nọ bà
cúng dường cho một
Bích Chi Phật, và khi thấy ngài bay
trên trời, bà
tỏ ra tôn kính và sùng mộ. Bà
cầu nguyện, “Con
mong ước được như ngài !”
Đã giết đứa trẻ, bà
tái sanh trong những
trạng thái khốn khổ và
kinh nghiệm khổ đau khủng khiếp. Về sau, bà sanh làm một người đàn bà đẹp ở Sravasti, lấy chồng và có hai con trai. Chồng bà bị
rắn độc cắn chết, một đứa con trai bị nước cuốn trôi, và đứa kia bị sói
ăn thịt. Nhà của
cha mẹ bà bị cháy, và
bà con bà bị thiêu trong lửa. Sau cùng bà lấy một người chồng khác và có một đứa con trai. Ông chồng này say rượu, giết đứa con và bắt bà
ăn thịt nó. Đau buồn, bà bỏ đi, và gặp một người đàn ông góa vợ. Bà lấy ông này, nhưng ông chết. Theo tục lệ của vùng đó, bà bị chôn theo xác chồng. Một tên trộm đào mộ, đem bà đi và lấy bà làm vợ, nhưng
luật pháp bắt người
ăn trộm này và ông bị vua hành hình. Bà lại bị chôn theo xác chồng. Lúc này một con chó sói đào mộ bà, nhưng bà thoát được và gặp Phật và
xuất gia. Dù về sau
bà đạt đến
trạng thái A La Hán, bà vẫn chịu
đau đớn như bị một cái muỗng sắt nung đỏ xuyên từ đỉnh đầu đến hai bàn chân, và bà
liên tục kêu lớn vì đau. Đó là nghiệp còn sót của việc đâm đứa con trai với một cái kim, và
sự kiện bà chết chồng nhiều lần là do
lời thề giả dối và xấu ác. Sự
đạt đến quả vị A La Hán là do bà đã tôn thờ vị
Bích Chi Phật, và mỗi hành động này chín trong
một đời.
Ngày xưa, trong thời Phật Vipasyin (Phật
Tỳ Bà Thi), mười ngàn
tăng đạt đến bốn
quả vị của
con đường (từ
Nhập Lưu đến
A La Hán). Khi họ sống trong nơi
hoang dã, một số nhà buôn
cúng dường các tăng ấy một viên ngọc, giao cho một vị tăng trông lo
đời sống tu viện. Về sau, khi
thực phẩm cạn dần, họ định bán viên ngọc, nhưng vị tăng đã nhận giữ nó cãi lại, “Cái này đã cho tôi, đâu phải cho tất cả
chúng ta !” Khi người ta nói lên
sự thật, vị ấy khăng khăng, “Cái này là của tôi. Các anh ăn cứt !”
Ngay khi chết, ông sanh trong một
địa ngục lớn, và chín mươi mốt kiếp ông sanh vào chất thải, và ông sanh vào chất thải
liên miên suốt những thời của nhiều vị Phật
quá khứ. Rồi ông sanh trong một hồ nhỏ làm
một sinh vật lớn, như một con rắn nhưng với bốn chi và miệng và mắt như người. Hồ này thối tha, vì
mọi người của thành phố
lân cận trong vùng núi Linh Thứu đổ chất thải của họ vào đó. Ở đó ông bị nhiều côn trùng nhỏ, ở trên và ở dưới hồ cắn đốt. Khi chúng chuyển động,
mùi hôi tỏa rộng. Nhiều vạn năm ông chết và
tái sanh ở đó. Có nói rằng ông phải ở đó
cho đến khi tất cả một ngàn vị Phật đến và đi. Điều này nói trong “Chương về
Nhà Sư Kyunte”. (Kinh Người
Thông Tuệ và Kẻ
Ngu Dại, chương 52.)
Vô số kiếp về trước, trong vùng Varanasi, một người đổi tất cả
gia tài lấy vàng, cất trong bảy cái hũ. Sau đó, khi sắp chết, tâm ông không thể lìa khỏi kho tàng, và ông
tái sanh thành một con rắn để giữ vàng. Sau nhiều năm, thành phố sụp đổ
điêu tàn và
trở thành một vùng đất hoang, nhưng ông vẫn
tái sanh làm rắn.
Một lần có một người
đến gần, con rắn gọi lớn, “Tôi có vàng, hãy dùng nó làm một bữa tiệc cho
Tăng đoàn ! Vào ngày anh làm việc đó, hãy mời tôi với. Nếu anh không làm được, tôi sẽ làm cho anh
ân hận !” Người ấy lấy một hũ vàng và bán. Vào ngày anh ta làm
trai tăng, anh lấy một cái thúng đỏ đem con rắn theo.
Chư Tăng dạy Pháp cho con rắn, và nó
cúng dường sáu hũ vàng, và nó vẫn sanh lại làm rắn. Có nói rằng con rắn sau này
trở thành Xá Lợi Phất và người cúng vàng giúp cho nó
trở thành Phật
Thích Ca.
Trong thời Phật Kasyapa (Phật
Ca Diếp), có một vị sư già
đắc quả A La Hán có giọng nói dở và một vị sư trẻ có giọng hay cùng nhau
tụng kinh. Người trẻ than, “Huynh
tán tụng giống như chó sủa.” “Chớ nói thế”, vị sư già
trả lời, “Tôi là một
A La Hán.” Người trẻ
hối hận về
lời nói của mình và
sám hối, nhưng anh vẫn
tái sanh năm trăm lần làm con chó. Sau cùng anh sanh làm một con chó ở Sravasti, nơi đó một người con trai của một nhà buôn bẻ gãy chân nó và bỏ nó trong một chỗ
hoang vắng.
Xá Lợi Phất cho con chó
thức ăn và dạy nó Pháp ; và
sau khi chết, nó sanh làm con một
Bà la môn nhận
giới Sa di từ
Xá lợi Phất và thành một
A La Hán.
Những chuyện kể ở trước nói về những
tai hại của sự không
đức hạnh. Bây giờ tôi sẽ tổng hợp
ý nghĩa của Kinh Người
Thông Tuệ và Kẻ
Ngu Dại về những
lợi lạc của
đức hạnh.
Ngày xưa, vào lúc
chấm dứt thời Phật Kasyapa, có hai
Bà la môn thực hành bát quan trai. Một người
cầu nguyện được
tái sanh là một ông vua, và lời
cầu nguyện của ông được thành. Người kia
cầu nguyện được
tái sanh là một vị trời, nhưng chiều hôm đó bà vợ ông khuyến dụ ông dùng cơm tối, và ông
tái sanh làm một con rồng. Vị vua đó có một người
trông coi hàng rào bao quanh vườn cây của vua. Một dịp người
trông coi khám phá ra một trái lớn, ngọt ngào mọc từ một con suối và ông đưa nó cho thị vệ của vua, người này đem nó cho hoàng hậu, và rồi bà đưa lên vua. Nhà vua hỏi về trái cây và ra lệnh, “Người nào
tìm ra nó hãy đem cho ta nhiều thứ này nữa ! Nếu y không làm, y sẽ bị hành hình !” Người ấy khóc và chờ đợi nơi con suối, và con rồng
xuất hiện thành một người đến hỏi
cớ sự. Khi
câu chuyện được kể, rồng đưa cho một rổ trái cây và gởi đến nhà vua lời nhắn này : “Hỡi nhà vua, ông với tôi là bạn. Ông đã giữ sự nhịn ăn một cách
thanh tịnh, nên ông được sanh làm vua, trong khi tôi không giữ được, và tôi sanh làm rồng. Hãy cho tôi bản chép tay bát quán trai. Nếu ông không làm, tôi sẽ biến vùng này thành một cái hồ và xóa sạch nó.”
“Vì
Phật pháp đã
suy tàn, một bản văn như vậy không thể
tìm ra nữa”, nhà vua
trả lời, nhưng nhà vua ra lệnh cho các
quan đại thần, “Hãy tìm nó. Nếu các ông không
tìm ra cái nào, các ngươi sẽ bị hành hình !” Một đại thần hỏi một người già, ông
trả lời, “Có một cột trụ nơi căn nhà kia thường phát ra ánh sáng, hãy tìm ở đó.” Cột trụ được mở ra, và Kinh về
Duyên Sanh và một bản chép tay tám điều
bát quan trai được
tìm thấy trong đó. Nhà vua để chúng trong một cái hộp nhỏ bằng vàng và gởi tới cho rồng. Rồng rất
sung sướng và biếu vua nhiều ngọc. Rồng và vua giữ
bát quan trai và cũng khuyến khích những người khác làm như vậy, kết quả họ được
tái sanh thành những vị trời. Khi gặp được
Thích Ca Mâu Ni, họ
nghe Pháp và
đắc quả Nhập Lưu. Họ không sanh lại trong những
trạng thái khốn khổ, và
kinh nghiệm niềm vui và
hạnh phúc của trời và người. Có
tiên tri rằng
cuối cùng họ sẽ
giải thoát. Chuyện này rút ra từ chương ba có tựa là “Người Ăn Xin Giữ Những Điều Giới”.
Vô số kiếp trước, Vua Brahmadatta và
tùy tùng đến một hang động
đẹp đẽ, và ở trước hang có một người đang ca hát.
Nổi giận, vua bắt nhốt và chuẩn bị hành hình. Một trong những đại thần can vua không nên hành hình y mà để làm một người hầu.
Cuối cùng, người ấy
xuất gia và
trở thành một
Bích Chi Phật. Đại thần đã
quy kính và
cầu nguyện vị ấy, kết quả là trong mọi đời
tái sanh ông vẫn sanh vào
gia đình giàu có và
thế lực hay một vị trời sống lâu hay là người với
thân thể tốt đẹp đặc biệt. Sau cùng ông
tái sanh làm con trai độc nhất của một
thương gia giàu có. Cha anh không muốn con mình
xuất gia. Cậu bé nghĩ, “Nếu mình sanh trong một
giai cấp thấp của
xã hội, mình sẽ được
cho phép thành một nhà sư”, và anh phóng khỏi một mỏm núi. Nhưng anh rớt xuống
an toàn. Rồi anh nhảy vào một dòng sông, nhưng anh không chết đuối ; và anh uống thuốc độc cũng chẳng có
hiệu quả. Bởi vì anh
phạm luật của vua, ba lần vua ra lệnh bắn anh, nhưng tên đều rơi xuống đất.
Nhà vua bảo anh, “Anh phải là một vị trời hay một con quỷ !” Khi đứa trẻ
giải thích tại sao nó muốn chết, vua
cho phép nó
xuất gia. Rồi nó
thọ giới với Phật
Thích Ca và thành một
A La Hán. Như thế, nhờ
cứu sống một
cuộc đời, đại thần sanh ra chỗ nào thì không có gì có thể
rút ngắn cuộc đời ông được ; và
cuối cùng ông
đạt đến trạng thái của một vị
A La Hán.
Chín mươi mốt
kiếp trước, một người nghèo bán một số gỗ lấy hai
đồng tiền vàng và
cúng dường nó cho Phật
Thích Ca và
chư Tăng. Kết quả là, trong chín mươi mốt kiếp, anh sanh làm người, và bất cứ nơi đâu anh sanh ra, trong hai bàn tay anh có hai
đồng tiền vàng. Anh luôn luôn
giàu có và sự
giàu có đó là không cùng.
Cuối cùng anh sanh ở Rajagrha làm con trai của một
phụ nữ chủ
gia đình. Đứa bé đẹp lạ lùng, nhưng hai tay nắm lại. Khi mở nắm tay, người ta thấy nó đang nắm hai
đồng tiền vàng, và dù khi
lấy đi, những
đồng tiền vàng lại
tiếp tục xuất hiện đến độ chúng đầy cả căn phòng. Về sau, nó
xuất gia với Phật,
trở thành một
A La Hán và được biết là
nhà sư Trang Hoàng Bằng Vàng.
Ngày xưa, trong thời Phật Kanakamuni (Phật Câu Ni Hàm
Mâu Ni). Do
niềm tin của mình có một người nghèo
phục vụ cho
chư Tăng như là một người
trông coi nhà. Gom hoa từ một cánh đồng, anh tung chúng vào
chư Tăng và dâng cúng những lời
cầu nguyện. Kết quả là trong chín mươi mốt kiếp, dù sanh ra ở đâu, anh cũng có một
hình tướng tốt đẹp, và anh thọ
thực phẩm tuyệt hảo và
tài sản phong phú.
Cuối cùng anh sanh ra ở Sra-vasti như là con của một
gia đình giàu có và có
uy tín.
Hình tướng anh
hấp dẫn phi thường, và ngay khi sanh ra, một trận mưa hoa rơi từ
trên trời xuống. Thế nên anh có tên là Kusumadeva, vị trời của Hoa. Về sau, anh mời Phật
Thích Ca và
chư Tăng đến và
lễ lạy. Trong nhà anh, gối nạm ngọc và
thực phẩm hiện ra chỉ bằng cách nghĩ đến chúng. Rồi anh
trở thành một
nhà sư và
đạt đến trạng thái A La Hán. Như vậy có nói rằng người ta không nên
xem thường dù chỉ một đồ tặng nhỏ, nghĩ rằng không có
phước đức bao nhiêu trong đó.
Ngày xưa, trong thời Phật Kanakamuni, có một chủ
gia đình làm những
tôn kính đối với mỗi thành viên của
Tăng già.
Vui sướng với điều này một người nghèo nắm một vốc tiêu trắng, nghĩ rằng chúng là ngọc, và ném chúng về phía
chư Tăng khi dâng một lời
cầu nguyện. Như một kết quả, trong chín mươi mốt đời anh ta
tự nhiên có ngọc,
thức ăn,
y phục và
tài sản. Rồi anh sanh ở Sravasti làm con của một chủ
gia đình, và ngay khi sanh ra, một trận mưa bảy thứ báu rơi xuống, đầy nhà. Đứa bé do đó được đặt tên là Devaratna. Sau đó anh thành một
nhà sư và đạt
quả vị A La Hán với thời của Phật
Thích Ca.
Ngày xưa, khi Phật có
danh hiệu là
Bảo Vệ Công Đức còn ở đời, có một vị tăng đi khắp nơi khuyến khích
mọi người thực hành đức hạnh. Lúc đó có một người đàn bà tên là Daniska cùng cực
nghèo khổ. Chồng bà và bà chỉ có một mảnh vải để mặc cho cả hai người. Họ thay đổi cho nhau, người này đi ra thì khoác vải lên, còn người kia thì trần truồng ở nhà. Vị tăng nói cho bà nghe những
lợi ích của bố thí, và với sự
ưng thuận của người chồng, bà
cúng dường tấm vải, và hai người trần truồng nấp trong nhà. Vị tăng dâng tấm vải cho Phật, ngài cầm tấm vải
có mùi hôi trong tay,
tuyên bố, “Đây là hành động
bố thí thanh tịnh rốt ráo duy nhất.” Nhà vua và hoàng hậu cởi bỏ
y phục và những đồ trang sức gởi đến cho cặp vợ chồng nghèo. Người đàn ông và vợ đến
đức Phật nghe Pháp. Rồi trong chín mươi mốt kiếp, dù sanh ở đâu, họ cũng sanh ra với quần áo và rất
giàu có.
Cuối cùng bà sanh ở Sravasti làm một cô gái
xinh đẹp phi thường của một chủ
gia đình. Bởi vì khi sanh ra đã mặc một
áo dài trắng mềm mại, cô được đặt tên là Suci. Khi lớn lên áo của cô cũng lớn lên theo cho
vừa tầm cỡ, và cô không mặc áo nào khác.
Cuối cùng cô
thọ giới làm ni với đức
Thích Ca, và
y phục của cô chuyển thành
y phục của một vị ni
Phật giáo. Sau đó cô
đạt được quả vị A La Hán.
Ngày xưa trong xứ Apadeva có một chủ
gia đình rất giàu nhưng
keo kiệt và không thương người. Ông có một bà người hầu già làm việc
cả đời mà thiếu áo quần che thân, và bà không đủ đồ ăn.
Một lần khi bà đi xách nước, bà khóc to và nghĩ, “Bây giờ ta không có
thực phẩm hay áo quần. Ta đã quá già, nhưng ta phải còn làm việc, không thể chết !” Lúc đó Thánh Katyayana đến và hỏi, “Bà có bán cho tôi sự
nghèo khó và khốn khổ của bà không ?”
“Làm sao tôi có thể làm như vậy ?” bà hỏi.
“Hãy tắm rửa và
cúng dường cho tôi một bát đầy nước”, ngài
trả lời và bà làm theo. Ngài có một
cầu nguyện hồi hướng cho sự
cúng dường này, cho bà một
giáo huấn duy nhất về
thực hành tâm linh, và nói bà trì tụng
danh hiệu Phật.
Sau cùng bà chết và
tái sanh làm một
thiên nữ trong
cõi trời Thứ Ba Mươi Ba. Rồi
thiên nữ ấy cùng với một đoàn
tùy tùng năm trăm người đến
cúng dường ở chỗ chôn xác bà lão. Người trong vùng ấy
chứng kiến việc này và hỏi tại sao như vậy. Họ kể
câu chuyện về bà lão. Những vị trời này nhận
giáo pháp từ Phật Katya-yana, và người nào cũng
đắc quả.
Ngày xưa, sau khi Phật Vipasyin
nhập niết bàn, một số chủ
gia đình tôn kính nhiều vị sư
Phật giáo. Một người nghèo và vợ khóc vì không có gì để
cúng dường. Bà vợ nói, “Chúng ta hãy tìm quanh trong phòng kho, nếu có thứ gì nhỏ nhất ở đó,
chúng ta hãy
cúng dường nó.” Tìm chung quanh, họ thấy chỉ có một
đồng tiền vàng và bỏ nó vào trong một cái bình. Rồi họ đổ đầy bình với nước sạch, đậy tấm gương lên, và
cúng dường nó. Nhờ
đức hạnh ấy cả hai người sanh làm các vị trời ở
cõi Trời Thứ Ba Mươi Ba ; và trong chín mươi mốt kiếp, dù sanh ra nơi nào, họ cũng đều có màu vàng và
đẹp đẽ phi thường, và họ
sung túc lạ lùng. Sau cùng một người sanh ở Sravasti làm một đứa con trai có màu da
vàng ròng của một chủ
gia đình giàu có, và người kia làm một cô gái
đẹp đẽ tương tự trong vùng Campa. Ngay khi vừa sanh ra, những con suối bắt đầu chảy trong nhà họ, và múc nước lên, nó
biến thành ngọc,
thực phẩm và
y phục theo
ý muốn của lòng họ. Sau đó hai người cưới nhau, mời
đức Phật đến và
nghe Pháp. Rồi cả hai
xuất gia và
trở thành A La Hán. Ông là sư Suvarnadeva và bà là ni Suvarnaprabha. Đó là
công đức của một hành động
bố thí nhỏ của những người nghèo.
Trong
thời đại của Phật Vipasyin, có một chủ
gia đình cúng dường một
đồng tiền vàng cho
đức Phật, đã nhận được ba câu kệ
giáo huấn thực hành, và không làm những hành động không
đức hạnh như giết, trộm... Như một kết quả, trong chín mươi mốt kiếp ông rất giàu và thọ. Sau cùng ông sanh ra ở Sravasti làm con trai của một người vợ của một chủ
gia đình giàu có. Một hôm còn bé nó rơi từ lòng mẹ xuống sông và bị một con cá lớn nuốt. Con cá bị một người đánh cá bắt được ở
hạ lưu sông, và đứa trẻ được
tìm thấy còn sống từ trong bụng cá. Nó được một
thương gia giàu nhận nuôi vì ông không có con trai. Người chủ
gia đình nghe
câu chuyện này và nói với ông, “Đây là con trai của tôi. Hãy trả nó cho tôi !”
Thương gia kia
trả lời, “Tôi đã
cúng dường chư thiên, và
chư thiên ban đứa bé cho tôi từ bụng một con cá.” Họ không dàn xếp được
với nhau, nên đến gặp nhà vua, vua nói với họ, “Hãy chia đứa bé cho cả hai người.” Cả hai đều
giàu có, nên đứa bé lớn lên trong
xa hoa phú quý. Khi đến tuổi
trưởng thành, nó nói với hai người cha rằng nó muốn thành một ông sư. Cả hai người cha đều yêu quý nó đến độ họ không thể từ chối, thế nên nó
thọ giới với Phật
Thích Ca. Nó
trở thành một
A La Hán có tên là Hai
Gia Đình. Nhờ
cúng dường vàng, trong mọi đời ông ấy được
giàu có, và nhờ không giết hại, dù rơi xuống sông và bị cá nuốt, ông không chết. Và nhờ những
thệ nguyện quy y, ông
trở thành một
A La Hán.
Ngày xưa, sau khi Phật Kasyapa
nhập niết bàn, có một chủ
gia đình dựng một cái tháp, xây một phòng họp cho Tăng, và
cung cấp nuôi sống
chư Tăng một
thời gian dài. Sau cùng tháp và phòng họp sụp đổ và sự
cung cấp thực phẩm cho
chư Tăng chấm dứt. Người chủ nhà ấy có một người con trai
trở thành một
nhà sư, và ông đã dựng lại cái gì đã sụp đổ và
cung cấp cho
chư Tăng như trước. Như một kết quả của những
cầu nguyện của ông, về sau ông sanh làm vua Mahakapina trong Xứ Vàng. Trong nước ông có tám mươi bốn ngàn thái ấp dưới sự trị vì của ông, và ông rất
uy quyền. Khi ông chuẩn bị
hàng phục Vua Prasenajit của miền
trung Ấn Độ,
đức Phật hiển lộ như một
chuyển luân thánh vương và
chinh phục ông. Vị này bèn
xuất gia và thành một vị
A La Hán. Như vậy, như một kết quả của
công đức tạo dựng, ông được sanh ra làm một ông vua
quyền lực và
đắc quả.
Ngày xưa, một người đến
cung kính tháp của Phật Kasyapa, trong đó có một tượng voi cỡ nhỏ mà
Bồ tát đã cưỡi khi xuống từ
Đâu Suất (vào trong bụng mẹ). Người ấy sửa lại tượng voi, vẽ và thoa dầu. Như một kết quả, trong mọi
đời người này hưởng sự sống lâu, sang quý và
giàu có không cùng. Về sau ông sanh tại Sravasti làm con của một chủ
gia đình, và khi mới sanh ra, một con voi bé bằng vàng
tự nhiên xuất hiện trong phòng kho. Khi cậu bé lớn lên, con voi cũng lớn, và nước tiểu và phân của nó bằng vàng. Chàng thanh niên thường cưỡi nó, và khi Vua Ajatasatru đánh cắp nó, nó cũng không ở với vua mà
trở về với chàng thanh niên. Sau cùng chàng
xuất gia với Phật và được biết như là
nhà sư Cứu Giúp Voi. Vì có nhiều người đến xem voi, nó không được
cho phép ở lại với
nhà sư. Thế nên
nhà sư nói với nó ba lần, “Ngươi không được cần đến nữa.” Và nó biến mất vào trong đất.
Ngày xưa, vào lúc
chấm dứt thời đại của Phật Vipa-syin, năm trăm
nhà sư đi
ẩn cư để
tìm thấy tính chất như hình
phản chiếu của những
hiện tượng. Vào lúc đó, một
nhà sư cung cấp thực phẩm cho họ bằng
cách đi khất thực. Trong số các sư, có bốn vị
đắc quả, và họ
cầu nguyện cho người đã
cung cấp thực phẩm cho họ suốt cuộc
ẩn cư. Trong sáu mươi mốt kiếp, người đã đi
khất thực sanh vào
cõi trời hay người
giàu có. Sau cùng ông sanh vào một chủ
gia đình ở Kosala, và ông có một ngôi nhà bảy tầng làm bằng
bảy báu. Ông
sung túc giống như
chư thiên, vì ông có một
tùy tùng gồm nhiều vị thiên và
thiên nữ. Về sau ông
xuất gia với Phật và thành
A La Hán.
Vô số kiếp về trước, có hai ngàn
nhà tu trên một ngọn núi. Nghe rằng trời không mưa mười hai năm, một chủ
gia đình giàu có hứa sẽ làm
thí chủ cho họ trong
thời gian đó. Ông
chỉ định năm trăm người lo
cung cấp cho các sư, nhưng họ
mệt mỏi và than, “Sự
phiền toái liên miên này là vì những người ăn xin kia.” Lúc đó có một người gọi các
nhà tu đến dùng bữa, và anh có một con chó
đi theo. Một hôm anh quên gọi, nhưng con chó chạy đến và sủa, và các
nhà tu đến.
Sau mười hai năm, các
nhà tu nói, “Mưa sắp rơi xuống, thế nên hãy trồng trọt”, và anh chuẩn bị ruộng đồng. Chỉ có cây táo ta là lớn, và trái rất nhiều đến độ đầy cả những nhà kho của anh. Rồi năm trăm người kia bắt đầu tin, họ
sám hối những lời
thô lỗ trước kia. Bởi vì họ gọi các
nhà tu là ăn xin, họ
tái sanh năm trăm lần làm ăn xin. Sau cùng họ
trở thành năm trăm người ăn xin ở Sravasti, nơi đó họ
xuất gia và thành
A La Hán. Đó là
lợi ích của
sự sám hối của họ.
Một nhà vua và các đại thần
thỉnh mời Phật
Thích Ca và
chư Tăng đến, nhưng họ nói, “Chớ mời những
nhà sư trước kia là người ăn xin.” Thế nên theo lời của Phật
Thích Ca, mỗi người (trước kia là người ăn xin)
mang theo một
bình bát đầy trái cây của mùa màng không cần trồng của Bắc Cu Lô Châu. Họ có
bữa ăn cùng với Phật, và
mọi người đều đầy
lòng tin. Sau đó tất cả họ được mời chung.
Người chủ
gia đình là
đức Phật, người giữ kho là
Thái Tử Chiến Thắng, người gọi các thầy tu là Vua Upana, và con chó
trở thành một chủ
gia đình tên là Tốt Giọng, luôn luôn có một giọng nói hay trong tất cả mọi đời.
Ở Sravasti có một người đàn bà tên là Nyen-gamo, bà rất nghèo túng. Do đi ăn xin, bà có được ít dầu, làm một cây đèn dầu nhỏ và dâng
cúng Phật. Sáng hôm sau bấc của cây đèn không tắt, và
Mục Kiền Liên, nghĩ rằng cây đèn không cần thắp ban ngày nên ngài làm cho tắt, nhưng không làm được. Bấy giờ
đức Phật tiên tri rằng sau hai
vô số kiếp người đàn bà sẽ
thành Phật hiệu là Ánh Sáng
Ngọn Đèn.
Ngày xưa, Phật Kasyapa và
tăng chúng được một người đàn bà giàu và một người đàn bà nghèo mời
đồng thời, và các ngài
trước tiên đến chỗ ngưòi đàn bà nghèo. Với một
cảm giác tự tôn và
kiêu căng vì giàu, người đàn bà kia than, “Các ngài không đến ta trước, mà đến cái bà ăn xin kia !” Như một kết quả, bà năm trăm lần sanh ra làm ăn xin. Ngày hôm sau với
lòng tin và sùng mộ, bà gặp Phật và nhận
lời tiên tri của ngài về sự
giác ngộ của bà, và
mọi người cúng dường vô số đèn dầu lên
đức Phật.
– Ở
Tây Tạng,
thời gian trước, có một người rất giàu
cúng dường rộng rãi cho mọi
cộng đồng tu viện ở Lhasa, trong đó có ba
đại học tăng, với hai mươi lăm vị tăng.
Bố thí rộng rãi như vậy, ông nghĩ mình là một nhà
từ thiện vĩ đại, và sự
kiêu ngạo của ông lớn lên.
Trong khi đó, một
bà già ăn xin, thấy ông là một
thí chủ cho những
tu viện đó,
thành thực tùy hỷ với sự
rộng lượng của ông. Nhiều
niềm tin, bà
tùy hỷ, vui theo
công đức và
đức hạnh của ông, nhưng vì quá nghèo bà chỉ có thể làm một
ngọn đèn bơ bằng cách đổ mỡ
thú vật vào một móng chân ngựa. Cây đèn này bà
cúng dường chung với hàng ngàn cây đèn bơ của
thí chủ giàu có. Khi chúng đang cháy, một ngọn gió nổi lên thổi tắt tất cả những
ngọn đèn trừ
ngọn đèn của bà.
Một
thành tựu giả chứng kiến sự việc này
bình luận rằng dù nhà
từ thiện cúng dường rất nhiều, động cơ của ông bị dơ nhiễm vì sự tự phụ. Ngược lại, bà lão chỉ có một món
cúng dường khiêm tốn nhất, đã làm với
tin tưởng và khiêm hạ
thuần khiết thanh tịnh.
Khi
cúng dường, động cơ phải là sự
tin tưởng thanh tịnh và từ lòng bi, không nghĩ đến cái gì bạn sẽ được đền đáp. Lúc đó hành động
bố thí của bạn thực sự là một
đức hạnh và sẽ có những
hậu quả tốt đẹp. Nhưng nếu hành động
bố thí có động cơ là tự phụ, chút
tốt đẹp cũng không đến từ đó. –
Ngày xưa, một
nhà sư tên là Aryamitra
quyết định đi
khất thực để
cúng dường đèn dầu trong ba tháng lên
đức Phật Rinchen Tsukpu. Một người con gái của vua cho
nhà sư một lượng dầu lớn, thế nên không cần đi xin, ông có đèn dầu để
cúng dường trong ba tháng. Trong một
vô số kiếp, cả hai người hưởng thọ
hoan hỷ và
hạnh phúc của trời và người, và
thân thể đẹp đẽ phi thường.
Cuối cùng nhà sư đó
thành Phật Dipamïkara (Nhiên Đăng), và cô gái
thành Phật Thích Ca. Có nói rằng dù sau khi
thành Phật, nhiều người
cúng dường hai vị đèn dầu.
Trong thời Phật Kasyapa, một
nhà sư mới vào chế giễu một vị khác khi nhảy qua một cái mương, nói rằng, “Huynh nhảy như một con khỉ !”
Nhà sư đáp : “Tôi là một
A La Hán, thế nên chớ nói những lời
vu vơ như thế.” Dù
nhà sư đã
sám hối, ông sanh năm trăm lần làm khỉ. Nhờ
sự sám hối, khi còn làm khỉ ông gặp Phật
Thích Ca và
cúng dường mật cho ngài. Ông chết, và ngay sau đó
tái sanh làm người, nhà ông đầy mật. Sau cùng, ông
xuất gia và thành một
A La Hán, làm một vị tăng có tên Mật
Tuyệt Hảo. Như thế, có nói rằng cần
giữ gìn không nói lời bậy bạ.
Ngày xưa, một trong nhiều tháp của Phật Visvabhuj sụp đổ, và một bà lão tìm mười người để giúp bà
trùng tu lại. Như một kết quả của sự
cầu nguyện của họ, trong chín mươi mốt kiếp họ cùng
tái sanh làm trời và người, với
thân thể đẹp đẽ,
hấp dẫn, và
mọi người tôn kính, không bao giờ rơi xuống
địa ngục.
Cuối cùng bà
trở thành Sumana, con gái của chủ
gia đình Anathapindika.
Đẹp đẽ, một hoàng tử cưới cô, và cô sanh mười cái trứng nở thành mười con trai. Những người con trai về sau
xuất gia và
trở thành A La Hán. Người đàn
bà già xưa đã
trở thành cô gái, và mười người đàn ông từng giúp
bà thành A La Hán.
Một lần,
đức Phật đang dạy Pháp, năm trăm con
thiên nga bay đến và nghe ngài nói.
Thích thú, chúng muốn đậu xuống, nhưng một người thợ săn đặt bẫy và giết chúng.
Lập tức chúng
tái sanh trong Trời Thứ Ba Mươi Ba. Nhớ lại những đời trước của mình, họ đến gặp Phật và đạt
Nhập Lưu.
Có nói rằng phát sanh một
thái độ ác tâm đối với những
nhà sư mặc y vàng là phát sanh một
ác tâm với tất cả những bậc thánh của ba thời ; thế nên đây là một
tội lỗi vô lượng ; trong khi nếu người ta phát sanh
lòng tin, đó là
công đức lớn. Có kể rằng một con
sư tử tên là Tâm
Kiên Cố bày tỏ sự
kính trọng đối với một thợ săn mặc
y phục vàng nghệ, và như một kết quả, một trăm ngàn kiếp nó
trở thành chuyển luân thánh vương, và
cuối cùng thành Phật.
Trên là những chuyện kể từ các kinh. Đến đây
kết thúc chương bổ sung về những hành động và những
hậu quả của chúng.
– Những chuyện trên
chứng minh rằng nhiều động cơ phát sanh từ những
trạng thái tâm thức khác nhau
ảnh hưởng đến những hành động của
chúng ta, và những
chúng sanh khác nhau
tri giác một vật
duy nhất trong nhiều cách khác nhau.
Chư thiên thấy nước là
cam lồ,
ngạ quỷ thấy nó như mủ máu, và
chúng sanh địa ngục như dung nham núi lửa. Một vật được thấy khác nhau là do nghiệp của từng
cá nhân.
Thực tại có thể được thấy theo những cách khác nhau. Như chẳng hạn đức Dalai Lama được nhiều người xem là sự
hiện thân đích thực của
Quán Thế Âm. Một số nghĩ ngài là tốt cùng cực, một số
suy nghĩ ngài là xấu. Trong
thế giới này nhiều sự
nói xấu được lan truyền, và tất cả chúng đều sanh ra từ nghiệp của người ta – từ những hành động và những kết quả của chúng – với gốc rễ là
tâm thức của họ. Mọi sự thay đổi, vui, buồn, sướng khổ, thương, ghét... đều do
tâm thức. Mọi
quan điểm đều
vô thường và một cách nền tảng, chỉ là những
xuất hiện của
tâm thức. Thế nên, chớ chú trọng đến chúng quá nhiều. Cần chú trọng nhiều là
chính tâm thức của bạn !
Trong
truyền thống Đại Toàn Thiện, Guhyagarbhatantra nói rằng
tinh túy không gốc rễ của mọi sự chính là tâm. Mặt khác tâm là nền tảng, hay gốc rễ, của tất cả những
hiện tượng, nhưng
bản thân tâm thì không có gốc rễ, hay
tinh túy. Khi nói rằng
toàn thể sanh tử và
niết bàn có tâm làm gốc rễ của chúng,
chúng ta có thể hỏi, “Tâm là của ai ? Có phải là tâm của một
cá nhân không ?” Câu
trả lời là không ; tâm của tất cả
chúng sanh. Sự
liên hệ của
sanh tử và
niết bàn với tâm của Phật không phải là
liên hệ với tâm của một vị Phật mà là với tất cả chư Phật. Những tạo
tác ý niệm
vô số của tâm phát triển, và do
chạy theo những cái ấy,
chúng ta kéo dài mãi sự
hiện hữu của
chúng ta trong sáu cõi
sanh tử, và cũng kéo dài
ba độc của tâm. Một cách cơ bản,
chúng ta kéo dài
sanh tử của
chúng ta bằng cách bám níu vào cái không có
hiện hữu đích thật mà cho là thật. Vì
lý do này,
đức Phật dạy
Bốn Thánh Đế, hai
vô ngã, tức là
nhân vô ngã và
pháp vô ngã, và cái thấy
tánh Không.
Do khuynh hướng bám chấp vào cái không
hiện hữu cho là thực có,
chúng ta bám vào những
hiện tượng như là
kiên cố và
thường hằng, đó là chấp thường. Nhìn vào các thân Phật, thì
Pháp thân là
bản tánh đích thực của tâm. Bốn
hoạt động của
Báo thân –
bình an,
mở rộng,
thần lực và
dữ tợn – chỉ là những phô diễn của tâm.
Tiếp theo là cấp độ
Báo thân,
bao gồm tất cả
cõi tịnh độ, những cung điện, những phô diễn của
trí huệ bổn nguyên, và mọi phẩm tính của chư Phật, chúng chỉ là thuộc
bản tánh của tâm. Rồi
chúng ta có thể nhìn các cõi dục, cõi sắc và cõi
vô sắc của
sanh tử. Tất cả các cõi này, cùng với những tương liên tương thuộc của những hành động và những
hậu quả của chúng, nảy sanh
từ tâm. Mọi
hạnh phúc và đau buồn người ta
kinh nghiệm sanh ra chỉ
từ tâm.
Hãy nhớ trong tâm mười
thí dụ mà
đức Phật đã nói về mọi
hiện tượng,
tuyên bố rằng chúng như
tiếng vang, như ảnh
phản chiếu,
như ảo ảnh v.v... Người ta chỉ bám chấp vào cái
không thật cho là thật. Hãy nhớ mười thứ
tương tự này trong tâm ; chúng thực sự là những đối tượng rất
thích hợp để
thiền định. Nhưng trong lúc đó, quan trọng là
chúng ta không phát triển một
thái độ tự xem là
đặc biệt. Không có ai trong
chúng ta là
đặc biệt. Nếu bạn muốn trở nên
đặc biệt, thì hãy
nhận biết bản tánh của cái
tỉnh giác của bạn. Nếu bạn muốn là
đặc biệt, hãy gỡ
thoát khỏi mạng lưới
sanh tử này. Nếu bạn không làm được điều này, bạn không là
đặc biệt.
Khi tôi nói về sự không thực của
kinh nghiệm của
chúng ta, bạn có thể nghĩ có lẽ
nghiệp thực ra cũng không có
sự thật nào như những
kinh nghiệm của bạn, nhưng đây là một
kết luận sai lầm. Hãy xem những
đại sư quá khứ của dòng Kagyu. Họ thường tụng một câu nguyện, “Nguyện tôi chứng biết những
tinh tế của những hành động và những
hậu quả của chúng.” Chỉ khi người ta đã có được một
chứng ngộ rất cao gọi là “một vị của tất cả những hiện tượng”, thì người ta mới có thể thực sự
thâm nhập vào những mối tương
quan tinh vi này, những mối kết lẫn nhau
tinh tế này của những hành động và những
hậu quả của chúng. Có sự chứng biết đầy đủ này những
tinh tế của nghiệp có nghĩa là bạn đã có được hai loại
hiểu biết (hai trí) : về
bản thể và về
hiện tượng (
căn bản trí và
hậu đắc trí).
Trí huệ về
bản thể (
căn bản trí) là sự
chứng ngộ tánh không, nó là
bản tánh của tất cả
hiện tượng.
Trí huệ về
hiện tượng (
hậu đắc trí hay
sai biệt trí) của một vị Phật là sự thấu hiểu
thâm nhập phạm vi trọn bộ của những
hiện tượng,
đặc biệt về những hành động và những
hậu quả của chúng. Những tương quan này thì
vi tế không thể nghĩ bàn.
Hiểu biết về
bản thể và về
hiện tượng có thể
ví như thân của một cái cây, và quả là tám vạn bốn ngàn
bộ giáo lý của Phật. Thế nên, chớ nghĩ rằng những
giáo lý về nghiệp là một cái gì phải để lại sau hay trở nên vụn vặt một khi người ta đã đạt
chứng ngộ rất cao. –