Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khoa Học Và Phật Giáo

Wednesday, December 25, 201918:40(View: 7069)
Khoa Học Và Phật Giáo

KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO

Nguyễn Thế Đăng

Khoa Học Và Phật Giáo


Khoa học

Những mô hình của con người về thiên nhiên đều có đặc tính toán học. Có thể nói, nếu không có toán học thì không có vật lý học vì không có gì để chứng minhkết luận vật lý học thành những công thức. Nhưng ở thế kỷ XX, chúng ta chạm phải những nghi ngờ về quyền năng của toán học.

Các định lý bất toàn của Kurt Godel xuất bản năm 1931 có thể tóm tắt là: không một hệ thống toán học nào là tự đủ với chính nó, bởi vì trong đó có những định đề không thể chứng minh được trong hệ thống ấy. Muốn chứng minh được những định đề ấy phải ra ngoài hệ thống ấy, phải nhờ một hệ thống khác. Như thế, hệ thống này phải nhờ hệ thống kia và như vậy cho đến vô tận.

Alan Turing thường được xem là cha đẻ của ngành máy tính, cho rằng không có thuật toán nào để giải quyết các Bài toán dừng. Điều này đã được chứng minh trong các máy vi tính dầu hiện đại nhất, thế nào nó cũng có lúc dừng, và người ta không biết lúc nào nó sẽ dừng.

Chúng ta hãy lấy Bài toán trò chơi Ghép hình khỉ trong sách Điều Bất Khả - Giới hạn của khoa học và Khoa học của giới hạn của John D. Barrow, 1998; bản tiếng Việt 2011, Nxb Tri Thức. “Trò chơi này là khối Rubik cho người nghèo. Bộ trò chơi có 9 tấm thẻ vuông, mỗi thẻ in bốn nửa hình con khỉ có 4 màu khác nhau. Yêu cầu của trò chơi là phải sắp 9 tấm thẻ sao cho hình các con khỉ phải khớp với nhau và phải cùng màu. Để giải đáp, một thuật toán máy tính sẽ phải làm việc qua số phương án bằng 9 x 8 x 7 x 6 x 5 x 4 x 3 x 2 x 1 = 362.880. Ta gọi trị số này là “giai thừa 9”, được biểu diễn bằng kí hiệu “9!”. Trị số của giai thừa tăng lên rất nhanh theo số gốc. Trị số của 36! (tức là số gốc tăng lên chỉ 4 lần) gồm có 41 con số, và một máy điện toán chạy qua 36! cách sắp xếp với tốc độ một triệu cách sắp xếp mỗi giây sẽ phải mất 11 tỉ tỉ tỉ năm mới chạy xong. Đây chắc chắn là điều bất khả trên thực tế”.

Một bài toán của Christian Goldbach nêu ra vào năm 1742 là: “Một số chẵn là tổng của hai số nguyên tố”, đến nay vẫn chưa chứng minh được 8 = 3 + 5. Trực quan thì dễ hiểuchứng minh thì gần 300 năm rồi thế giới toán học vẫn chưa chứng minh được.

Dĩ nhiên toán học vẫn còn mãi tiến bộ, nhưng giới hạn của toán học có lẽ vẫn sẽ được mở rộng mãi không cùng.

Về vật lý học, trong những thập niên đầu của thế kỷ XX, hai nền vật lý học, Thuyết tương đối Hẹp và Rộng của Einstein và Vật lý Lượng tử đã làm thay đổi thế giới vật lý học. Ở đây chỉ nói qua về vật lý lượng tử

- Hằng số Max Planck khiến chúng ta không thể biết ở trước 10-43 giây của vụ nổ Big Bang thì vũ trụ là thế nào, cái gì tạo ra vũ trụ. Giới hạn của bức tường Planck là một giới hạn của vật lý học hiện đại.

 - Theo định lý Bất định của Heisenberg (1927), nếu ta biết vận tốc của một hạt thì sẽ không biết vị trí của nó, và ngược lại, biết vị trí của nó thì không biết vận tốc của nó.

- Một nguyên lý căn bản của vật lý lượng tử là Nguyên lý Bổ sung của Niels Bohr: Trong thế giới sóng - hạt của ánh sáng và vật chất, điều ta thấy phụ thuộc vào cách ta quan sát, nghĩa là chủ thể quan sát ảnh hưởng vào đối tượng được quan sát. Nếu chúng ta quan sát theo dạng sóng, đối tượng sẽ thành sóng; nếu chúng ta quan sát theo dạng hạt nó sẽ thành hạt.

Từ đó chúng ta có những khái niệm bất định xứ (non-local), sự mờ nhòe lượng tử, nguyên lý chồng chập, tính ngẫu nhiên, tính bất khả phân và đồng thời… đến độ nhiều nhà khoa học dùng chữ “lãng mạn” để chỉ vật lý lượng tử.

Cả thế kỷ nay các nhà vật lý lý thuyết cố công tìm ra một lý thuyết hợp nhất được Vật lý Tương đối của Einstein và Vật lý Lượng tử vì cả hai đều đã đúng trên mặt thực nghiệm. Lý thuyết được mơ ước đó, được đặt tên là Lý thuyết về tất cả mọi sự (Theorie of Everything), nghĩa là một Lý thuyết Thống nhất toàn bộ vũ trụ.

Các nhà vật lý đã sáng tạo ra Lý thuyết Dây với 11 chiều, nhưng hầu như không thể thí nghiệm được là đúng hay sai vì điều kiện của thế giớivũ trụ của chúng ta không cho phép.

Mới đây nhà vật lý nổi tiếng nhất trong hậu bán thế kỷ XX, Stephen Hawking đã viết trong cuốn Bản thiết kế vĩ đại (2010) cùng với Leonard Mlodinow rằng: “Sự tìm kiếm để khám phá một lý thuyết cuối cùng có thể chẳng bao giờ dẫn đến một bộ thống nhất những phương trình. Mỗi lý thuyết khoa học đem đến một kiểu mẫu riêng của nó về thực tại và điều đó khiến cho khoa học không nói được cái thực tại nào là thực sự và tối hậu”.

Tuy nhiên chúng ta thấy khoa học vẫn tiến bộ, vẫn khám phá ra nhiều cái mới, nhất là ở mặt kỹ thuật để sử dụng trên ngôi nhà trái đất này. Nhưng Lý thuyết về Tất cả Mọi sự thì có lẽ chẳng bao giờ với tới, bởi vì những giới hạn nằm trong chính mọi ngành nghiên cứu và cũng nằm trong ý thức con người. Có lẽ, như Định lý Bất toàn của Godel, chúng ta ở trong hệ thống vũ trụ này nên chúng ta không thể nào hiểu biết hết hệ thống vũ trụ này. Muốn hiểu biết hết vũ trụ này chúng ta phải ra ngoài hệ thống vũ trụ này để qua một hệ thống vũ trụ khác. Đây là điều không thể.

Nếu như phương trình chuyển hóa khối lượng thành năng lượng E=mc² rất kỳ diệuđơn giản của Einstein đã không thể chuyển hóa khổ đau và phiền não của con người thì, chúng ta hãy tưởng tượng, dù cho khám phá ra phương trình Lý thuyết về Tất cả mọi sự, việc trì tụng nó như trì tụng thần chú cũng chẳng thể xóa đi những phiền não, khổ đau của mỗi cá nhân chúng ta. Chẳng có thần dược nào tịnh hóa được những phiền não khổ đau của chúng ta. Nếu làm “quên” được, nó sẽ làm cho chúng ta chết, mà cái chết chắc gì đã xóa hết được. Và chúng ta có làm gì thì vũ trụ này cũng có ngày chết, vì nó đã được sinh ra. Cũng phải nói thêm rằng khoa học kỹ thuật đã được ứng dụng trong một nền kinh tế nhắm vào tiêu thụ nên con người hiện nay dễ lạc vào một thế giới vật chất mà quên đi thân phận sống chết của mình. Câu hỏi “Tôi là cái gì? Tôi đến từ đâu? Chết, tôi đi về đâu?” của Tây phương từ thời bình minh Hy Lạp vẫn chưa được khoa học giải đáp.

Đạo Phật nói rằng những gì con người khám phá ra ở vũ trụ tương đốivô thường dù đó là những định luật khoa học, đều là những chân lý tương đốiquy ước, vì đối tượng của chúng là những sự vật tương đốivô thường. Khi mọi nhu cầu của cuộc sống làm người đều được đáp ứng bởi khoa học và kỹ thuật, bởi các ngành kinh tế, pháp luật, xã hội… thì đạo Phật vẫn tồn tại và phát triển, bởi vì đạo Phật đáp ứng được cho con người nhu cầu tối hậu (nhu cầu thứ năm theo hình dung của Abraham Maslow): chân lý tuyệt đốitối hậu.

Đạo Phật

Chân lý tuyệt đốitối hậu theo đạo Phật là gì? Làm sao đạt được nó?

Sau đây chúng ta trích vài đoạn trong kinh Lăng-già để tìm hiểu phần nào con đường Phật giáo đi đến chân lý tuyệt đốitối hậu.

Edmund Husserl (1859-1938), người khai sinh ra Hiện tượng luận (Phenomenology) đã nói: “Ý thức là ý thức về cái gì”. Cũng phải nói thêm, Hiện tượng luậntham vọngtìm ra hiện tượng thuần túy và chủ thể thuần túy, chưa bị biến chất bởi những ý tưởng loạn động của con người, nên đã đặt ra nhiều phương pháp như “để vào trong dấu ngoặc” và “giảm trừ hiện tượng luận”… Nhưng, như chúng ta đã thấy, Hiện tượng luận không mấy thành công, và trở thành một phong trào yếu dần theo thời gian.

Ý thức bao giờ cũng hoạt động trong sự chia cách chủ thể và đối tượng. Ý thức chính là sự chia cách ấy nên ý thức không bao giờ lấp đầy được hố sâu ngăn cách chủ thể và đối tượng. Với kinh Lăng-già, sự chia cách ấy không chỉ ở ý thức, mà còn ở năm thức giác quan, thức chấp ngã (ý) và ở trong Tạng thức A-lại-da (tâm), nghĩa là trong toàn bộ tám thức.

Thế nên, kinh nói: “Vượt khỏi và chuyển hóa tâm, ý, ý thức”. Vượt khỏi và chuyển hóa tâm, ý, ý thức nghĩa là vượt khỏi và chuyển hóa sự phân biệt chia cách của tâm thức.

“Phật dạy: Đại Huệ! Ta rõ các pháp chỉ do tâm mà hiện, không có chủ thể nắm bắt và đối tượng nắm bắt, nên nói cái này có nên cái kia có. Nếu không biết các hiện tượng chỉ do tâm mà hiện, vọng suy tính có chủ thể nắm bắt và đối tượng được nắm bắt, chấp trước cảnh ngoài hoặc có hoặc không, đó là có lỗi, chẳng phải chỗ ta nói”.

Người thực hành không chỉ tìm cách xóa bỏ sự phân chia chủ thể - đối tượng chỉ bằng ý thức một cách trí thức, mà bằng toàn bộ thân tâm, tức là bằng Giới Định Huệ.

Sở dĩ con người không tìm được an vui vì nó đã chia cách với những con người và với thế giới, vũ trụ. Có sự chia cách gây ra khổ đau này là do chấp ngã và chấp pháp (những hiện tượng). Cho nên để hoàn nguyên lại một thế giới như thật, không bị chia cách, thì phải xóa bỏ sự chấp ngãchấp pháp giả tạo và hư vọng này đi. Cái thấy thực sự (chánh kiến) là thấy “hai vô ngã”: con người vô ngã (nhân) và những hiện tượng (pháp) vô ngã. Chính cái thấy sự vô ngã, vô tự tánh của “nhân và pháp”, phá tan sự chấp ngãchấp pháp để trả lại cho con ngườithế giới sự thanh tịnh bổn nguyên chưa hề bị chia cắt của nó.

“Lợi lạc của Pháp là gì? Là rõ tất cả các hiện tượng là tâm, thấy hai vô ngã, chẳng nắm giữ tướng, không có phân biệt, khéo rõ các địa, lìa tâm, ý, ý thức. Tất cả chư Phật nơi tất cả các hiện tượng được tự tại, đó gọi là sự lợi lạc của Pháp, vì không sa vào tất cả các kiến nhị biên phân biệt hý luận đoạn thường”.

Thấy được “hai vô ngã” là xóa được sự chấp ngãchấp pháp, lấp đầy được hố sâu ngăn cách giả tạo và hư vọng giữa chủ thể và đối tượng, giữa cái tôi và tất cả mọi sự và giữa mọi sự với nhau.

Vượt khỏi thức để chuyển hóa chúng là thế nào? Kinh cho chúng ta cái hiểu biết về thức và trí:

“Trí là biết được bất sanh bất diệt. Sanh diệt là thức, chẳng sanh diệt là trí. Sa vào tướng và vô tướng do lấy các thứ tướng hữu vô làm nhân là thức. Lìa tướngvô tướng do lìa nhân hữu vô là trí. Có tích tập tướng là thức, không tích tập tướng là trí. Có chuyển động, có sanh là thức. Không chuyển động, không sanh là trí”.

Đây là sự chuyển thức thành trí. Thành tựu sự chuyển thức thành trí này thì:

- Tạng thức A-lại-da bị nhiễm ô bởi phân biệt chia cắt và phiền não vi tế chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí; Trí rộng lớn bao la sáng soi như tấm gương.

- Thức thứ bảy chấp ngã chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí; Trí thấy tất cả mọi hiện tượng đều bình đẳng, nghĩa là cùng một bản tánh.

- Ý thức phân biệt chuyển thành Diệu Quan Sát Trí; Trí thấy sự khác biệt của các hiện tượng nhưng đồng thời vẫn thấy chúng bình đẳng trong bản tánh.

- Năm thức giác quan chuyển thành Thành Sở Tác Trí; Trí làm việc trong thế giới vật chất nhưng vẫn tự do, tự tại vì không còn bị nhiễm ô bởi thức phân biệt sanh ra phiền não.

Đây là thực tại tuyệt đốitối hậu được gọi là Nhất Chân Pháp Giới. Đây cũng là chân lý tuyệt đốitối hậu theo kinh Lăng-già.

Nguyễn Thế Đăng
Văn Hóa Phật Giáo Số 334 ngày 1-12-2019 
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 185)
Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản.
(View: 275)
“Tâm linh” vốn là cụm từ mà đối với nhiều người vẫn xem đó là những gì thuộc về thế giới siêu linh, huyền bí, thuộc về cõi âm.
(View: 264)
Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới.
(View: 254)
Ngay cả khi con trẻ không hiểu ý nghĩa, việc quy y vẫn có thể giúp chúng phát triển nghiệp duyên với Pháp.
(View: 301)
Trong thực tế đời sống, có những vấn đề lặp lại thường gắn với sự đơn diệu tẻ nhạt,
(View: 492)
Duy thức tam thập tụng là một bộ trước tác rất trọng yếu trong pháp tướng duy thức, còn là cương lĩnh và yếu chỉ của duy thức học.
(View: 515)
Phi-bạo-lực là một giải pháp thực tế trước các sự xung đột trong thời đại của chúng ta.
(View: 563)
Phật tử chúng ta thường đặt hoa trên bàn thờ. Chúng ta biết hoa rất đẹp, nhưng đó không phải là mục đích chúng ta đặt chúng ở đấy.
(View: 520)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông.
(View: 520)
Bên ngoài trời đã lạnh. Ra ngoài phải khoác thêm áo ấm; trong nhà phải vặn lò sưởi.
(View: 501)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương.
(View: 555)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sinh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(View: 615)
Trong khi một số vị pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ - bằng cách...
(View: 744)
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹ
(View: 621)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạc và tự do nội tâm.
(View: 719)
Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau.
(View: 752)
Phật tánh là chủ đề của Kinh Đại Bát Niết Bàn và được luận giảng trong Phật tánh luận.
(View: 737)
Phàm làm việc gì muốn được thành công, trước tiên đòi hỏi người ta phải siêng năng.
(View: 676)
Chữ Tánh, Bản tánh, Tự tánh được nói đến trong rất nhiều kinh, luận Đại thừa. Đó cũng chính là mục đích rốt ráo cần tu chứng.
(View: 701)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau trên khắp thế giới
(View: 926)
Hãy quán niệm thật sâu. Một khi có sinh, phải có khổ. Tất cả chúng ta đều phải chịu đựng theo cách đó.
(View: 929)
Khát khao là một cảm xúc tự nhiên của con người, biểu hiện qua mong muốn đạt được điều mà mình cho là quan trọng hoặc cần thiết.
(View: 834)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sanh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(View: 1241)
Vipassana và sathama là hai phương phápthiền nổi bật mang đến những trải nghiệm tâm hồn độc đáo.
(View: 1088)
Nguyện là lý tưởng, là mục đích, là định hướng cho cuộc hành trình.
(View: 1350)
Một trong những đóng góp to lớn của Hoà thượng Thích Minh Châu là sự nghiệpphiên dịch kinh điển.
(View: 1011)
Trong kinh Hoa nghiêm Đức Phật có dạy: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”
(View: 900)
Chúng ta có cuộc sống khác nhau trên những giai tầng xã hội, cung bậc tình cảm, cảnh giới tâm linh.
(View: 1159)
Khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, ngài đứng trước một lựa chọn trọng đại:
(View: 849)
Ngày xưa, đa phần chùa ở Á Châu được xây dựng trên núi, nên vị Thầy đến đó dựng chùa gọi là Thầy Khai sơn, Trụ trì.
(View: 899)
Sống trong một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến trạng thái tâm của bạn và những quyết định bạn đưa ra.
(View: 1042)
Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.
(View: 1013)
Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứthiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
(View: 1130)
Muốn chuyển hóa cảm xúc thì chúng ta cần chuyển hóa nhận thức trước, đau khổ đơn thuần cũng chỉ là một trạng thái của tâm.
(View: 844)
Bất cứ dược phẩm nào được tìm ra trong thế giới, dù nhiều và đa dạng, không có thứ nào bằng Pháp (trích từ Milindapanha).
(View: 856)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau
(View: 1151)
Từ xưa đến nay, chánh ngữ vẫn là yếu tố cần thiết để khẳng định “tính người” trong mỗi cá nhân,
(View: 897)
Sinh, lão, bệnh và tử: những điều này là bình thường. Sinh là bản chất bình thường của sự vật
(View: 943)
Thay đổi, biến động, dịch chuyển vốn là tính chất thường hằngcủa vạn hữu: có sinh ắt có diệt.
(View: 985)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi ngày chúng ta phải quyết định hàng trăm, hàng ngàn lần.
(View: 813)
“Thử tại tâm trung xuất hình ư ngoại” Đó là câu nói của cổ nhân, cũng có thể nói: “ Tâm sanh tướng”.
(View: 1239)
Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành.
(View: 1175)
Người xuất gia mang trên mình một hoài bão lớn là hướng tâm đến giải thoát tự thân và giúp người khác giải thoát.
(View: 1407)
Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người...
(View: 1314)
Nghe nói đến người tu, tưởng chừng như người ấy làm cái gì to lớn, đội đá vá trời, dời non, lấp biển;
(View: 1237)
Ngũ cănngũ lực tiếng Phạn là Pancindriya và Pancabala. Indriya có nghĩa là nguồn gốc, khả năng để tất cả các thiện pháp sinh khởi.
(View: 1119)
Nếu người nam hay người nữ nào, hành pháp ác bất thiện, phạm giới; thân thành tựu ác hạnh; khẩu, ý thành tựu ác hạnh;
(View: 1161)
Tu theo Giáo môn hoặc Thiền môn, họ tuân theo lời dạy của Phật hoặc Tổ sư, bám chặt vào lời nói của Phật hay Tổ ghi chép
(View: 1157)
Ăn chay, không ăn thịt, là một truyền thống cao đẹp hơn ngàn năm nay ở nước ta, phù hợp một cách sâu xa với tinh thần sùng cao của Phật giáo.
(View: 1011)
Chuyện người tu hành bị ma quỷ nhiễu hại xưa nay không phải là hiếm. Những bậc Thánh tăng còn bị làm hại huống gì phàm tăng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM