Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Rồng Trong Kinh Điển Phật Giáo

Tuesday, February 20, 202418:19(View: 2094)
Rồng Trong Kinh Điển Phật Giáo
Rồng Trong Kinh Điển Phật Giáo 

Phan Minh Đức


3

Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tạiKinh điển Phật giáo có nhiều huyền thọai về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật, Phật hàng phục hỏa long, Long vương nghe kinh Thập thiệnLong nữ thành Phật…

Rồng trong sự kiện đản sinh

Theo kinh Qúa khứ hiện tại nhân quả, khi thái tử Tất đạt đa ra đời có Tứ thiên vương dùng lụa quý của cõi trời đỡ, Trời Đại Phạm thiên và Trời Đế Thích cầm lọng báu đứng hầu hai bên. Lúc này trên không trung có hai vị Long vương phun hai dòng nước ấm và mát tắm cho thái tử. Kinh chép như sau: “…Lúc mặt trời vừa mọc, bà (hòang hậu Ma Da) thấy trong vườn có một cây lớn tên là Vô Ưu, sắc hoa rực rỡ, mùi hương thơm ngát, cành lá bủa rất rộng rất đẹp, liền với tay phải muốn hái hoa kia. Ngay khi đó, Bồ tát từ hông phải bước ra.

Lúc ấy, nơi gốc cây cũng hiện ra bảy hoa sen bảy báu (thất bảo) lớn như bánh xe. Bồ tát đứng trên hoa sen không cần người đỡ, tự đi bảy bước, đưa cánh tay phải lên, cất giọng như sư tử rống: “Trong tất cả trời người, ta là bậc tôn quý nhất; vô lượng sinh tử, hôm nay đã chấm dứt. Đời này ta sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh”. Vừa nói xong, bốn vị Thiên vương lấy lụa trời đỡ lấy Thái tử, đặt trên ghế báu, Thích Đề Hòan Nhơn và Đại Phạm Thiên Vương tay cầm bảo cái đứng hầu hai bên, Long vương Nan ĐàLong vương Ưu Ba Nan Đà ở trên hư không phun một dòng nước ấm, một dòng nước mát trong sạch tắm cho Thái tử. Thân Thái tử màu vàng ròng, có 32 tướng tốt, phóng ánh sáng rực rỡ chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Tám bộ Trời, Rồng ở trên hư khôngtrỗi các kỹ nhạcca tụng khen ngợi, đốt các hương thơm, rải nhiều hoa báu, tuôn xuống như mưa các lọai y trời và anh lạc rực rỡ, không thể tính kể”.

Trong kinh Đại Bổn và Vị tằng hữu pháp cũng có nói: Khi thái tử ra đời, thân không dính một chất dơ nào từ lòng mẹ, có bốn Thiên tử đỡ rồi đặt trước Hòang hậu và thưa: “Hòang hậu hãy hoan hỷ. Hòang hậu vừa sinh một bậc vĩ nhân”. Từ hư không có một dòng nước ấm và một dòng nước mát tắm gội cho thái tử.

Còn trong kinh Phổ Diệu ghi rằng, lúc Thái tử đản sinh có chín con rồng từ trên hư không phun nước xuống tắm cho thái tử. Chín vì huyền thọai chín rồng phun nước mà sau này có câu kệ tándương Đức Phật như sau: “Ngọc chất giáng hòang cung, cửu long phún thủy tề mộc dục” (Bản chấtthanh tịnhtrong sạchquý báu như ngọc giáng sinh ở chốn hòang cung, chín rồng phun nước đồng tắm cho thái tử).

Rồng che mưa cho Đức Phật

Theo Đại Phẩm của Luật tạng, vào tuần lễ thứ ba sau khi thành đạo, khi Đức Phật ngồi thiền định dưới gốc cây Mucalinda thì mưa to gió lớn nổi lên, một con rắn mãng xà đến quấn quanh mình Ngài và cất cao đầu lên che mưa cho Ngài. Trong Đức Phật và Phật pháp của Ngài Nàrada Mahà Thera (Phạm Kim Khánh dịch) ghi sự kiện này xảy ra vào tuần thứ sáu sau khi Phật thành đạothời gian Đức Phậtchứng nghiệm hạnh phúc giải thóat. Trận mưa bão kéo dài suốt bảy ngày mới chấm dứt. Khi trời quang mây tạnh, con mãng xà tháo mình trở ra và hóa hiện thành một thanh niên chắp tay đứng trước Đức PhậtĐức Phật đã nói cho người thanh niên nghe một bài kệcó nội dung như sau: “Đối với hạng người tri túc, đối với người đã nghe và đã thấy chân lý thì sống ẩn dật là hạnh phúc. Trên thế gian, người có tâm lành, có thiện chí, người biết tự kiềm chế, thu thúc lục căn đối với tất cả chúng sinh là hạnh phúc. Không luyến áingười, vượt lên khỏi dục vọng là hạnh phúc. Phá tan được ngã chấp quả thật là hạnh phúc tối thượng”.

Câu chuyện rắn thần che mưa cho Đức Phật khi truyền sang Trung Hoa đã chuyển thành câu chuyện rồng thần che mưa cho Đức Phật. Chính vì thế mà trong nhiều chùa có tranh ảnh, phù điêu khắc họa hình ảnh Đức Phật ngồi nhập định dưới gốc cây giữa trời mưa to gió lớn, có rồng thần quấn quanh mình và cất cao đầu che mưa cho Ngài. Trong các huyền thọai về Đức Phật được ghi lại trong kinh điển, sau khi lưu truyền qua các nước Trung Hoa, Việt Nam..., hình ảnh rồng thần được thay cho hình ảnh rắn thần. Cũng như trong sự kiện trên (Rắn thần che mưa cho Đức Phật), trong sự kiện Đức Phật hàng phục độc xà (sẽ nói  ở phần sau), các kinh điển Bắc truyền ghi lại hình ảnh một con hỏa long (rồng lửa) thay vì là một con rắn độc. Đối với người Ấn Độ thì rắn là con vật thiêng liêng trong khi ở các nước Trung Hoa, Việt Nam thì rồng là linh vật. 

Phật hàng phục hỏa long

Trong kinh Qúa khứ hiện tại nhân quả có thuật lại rằng: Đức Phật muốn hóa độ ba anh em ông Ưu lâu tần loa Ca diếp và các đệ tử của họ, bèn đi đến bờ sông Hằng, nơi họ và các đệ tử trú ngụ.

Khi Đức Phật đến nơi thì trời đã tối, Ngài bèn hỏi ông Ca diếp: “Tôi đi lỡ đường, xin ông cho tôi nghỉ nhờ một đêm”. Ông Ca diếp từ chối: “Rất tiếc, ở đây đồ chúng quá đông, không có chỗ nào để mời Ngài nghỉ lại”. Đức Phật nói: “Chỗ nào cũng được. Tôi chỉ xin nghỉ nhờ một đêm thôi”. Ông Ca diếpbèn chỉ về phía một hang động gần đó rồi bảo: “Nơi kia có thể nghỉ tạm được. Tiếc rằng trong đó có một con hỏa long rất dữ, người lạ vào e bị nó làm hại”. Đức Phật nói: “Không sao đâu. “Ngã nội thanh tịnh, ngọai tai bất nhập”(Bên trong ta thanh tịnhtai họa bên ngòai không xâm hại được. Xin ông vui lòng để tôi ở lại nơi đó”.

Đức Phật vào trong hang động, hỏa long nghe hơi lạ bèn bay ra, phun khói độc vào Ngài. Nhưng khi khói độc gần đến chỗ Phật thì bay ngược trở lại. Hỏa long bèn phun lửa, nhưng khi lửa gần đến chỗ Phật thì cháy ngược trở lại hỏa long. Đức Phật bèn nhập định Hỏa quang tam muội hóa lửa cháy sáng cả hang động, lửa của hỏa long bị đẩy lùi. Đức Phật từ bi bảo với nó: “Ngươi đã thấy phép thuật của ngươi còn thấp kém chưa?”  Đức Phật bèn đưa bình bát ra và nói: “Ngươi hãy vào đây để tránh lửa”. Hỏa long vội thu mình bay vào trong bát của Đức Phật.

Về sau, ba anh em ông Ca diếp và các đồ chúng nhận thấy thần lực và đức độ của Đức Phật không ai sánh bằng, họ đã xin quy y theo Phật.

Long nữ thành Phật

Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm thứ 12 Đề Bà Đạt Đa có nói sự kiện Long nữ, con gái Long vương thành Phật như sau:

“Lúc bấy giờ, Bồ tát Trí Tíchthị giả của Phật Đa Bảo bạch xin phép Phật Đa Bảo trở về nước. Đức Phật Thích Ca mới bảo Bồ tát Trí Tích: “Thiện nam tử, hãy chờ giây lát. Ở đây có Bồ tát Văn Thù, ông và Văn Thù có thể cùng nhau ra mắt mà luận nói pháp mầu, xong rồi sẽ về”.

Ngay khi ấy, Bồ tát Văn Thù và các Bồ tát tùy tùng ngồi trên hoa sen lớn, từ nơi cung Rồng (Long cungTa kiệt la trong biển lớn bay lên hư không, rồi bay đến núi Linh Thứu, từ hoa sen bước xuốngđảnh lễ Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca, kế đến hỏi thăm Bồ tát Trí Tích, sau đó ngồi qua một bên.

Bồ tát Trí Tích bèn hỏi Bồ tát Văn Thù: “Ngài qua cung Rồng hóa độ được bao nhiêu chúng sinh?” Bồ tát Văn Thù đáp: “Vô lượng. Nếu Ngài không tin, sẽ tự chứng biết”.

Bồ tát Văn Thù nói chưa dứt lời thì có vô số Bồ tát ngồi hoa sen từ biển bay lên đến núi Linh Thứu, trụ trên hư không, tất cả đều do Bồ tát Văn Thù hóa độBồ tát Văn Thù nói: “Ở biển, ta thường tuyên thuyết kinh Diệu Pháp”. Bồ tát Trí Tích hỏi: “Kinh này rất thâm diệu. Vậy có chúng sinh nào siêng tu theo kinh này mà mau thành Phật không?” Bồ tát Văn Thù đáp: “Có con gái của Long vương, mới lên tám tuổi mà đầy đủ trí đức, trong khỏanh khắc phát Bồ đề tâm, được bậc bất thối chuyểnbiện tài vô ngạitừ bi rộng lớn, công đức đầy đủ, có khả năng đến Bồ đề”.

Bồ tát Trí Tích không tin hỏi: “Chính Đức Phật Thích Ca còn phải trải qua vô lượng kiếp tu tạo nhiều công đức, làm những hạnh khó làm mới thành đạo Bồ đề, làm sao tin được Long nữ trong chốc lát mà chứng thành Chánh giác”.

Đàm luận chưa xong, Long nữ bỗng hiện racung kính đảnh lễ Phật rồi đứng qua một bên, nói kệ xưng tán pháp thân và cho biết nhờ nghe được diệu pháp mà nàng đã thành Bồ đề, nhưng việc này chỉ Phật chứng biết mà thôi. 

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Long nữ: “Thân gái nhơ uế, có năm điều chướng ngại, còn con đường Phật đạo xa diệu vợi, phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ mới đi hết, mà ngươi nói tu không bao lâu đã chứng được vô thượng Chánh giác. Làm sao tin được?” Long nữ bèn lấy một hạt châu hiến dâng Đức Phật Thích CaĐức Phật thọ nhận. Bấy giờ Long nữ hỏi Bồ tát Trí Tích: “Tôi hiến châu, Thế Tôn nhận lấy, việc ấy có mau chăng?” Bồ tát Trí Tích đáp: “Mau”. Bấy giờ Long nữ nói: “Ông hãy lấy thần lực của ông xem đây, tôi thành Phật còn mau hơn việc đó”.

Chúng hội liền thấy Long nữ thọat nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ tát, qua cõi Vô cấu phương nam, ngồi hoa sen báu, thành bậc Đẳng Chánh giác”.

Câu chuyện Long nữ thành Phật có ý nghĩa cao sâu: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, dù là lòai nào, nam, nữ, già, trẻ, bé, lớn đều có khả năng thành Phật nếu như đầy đủ trí tuệ và công đứcphước báu, tu hành không thối chuyển, có tâm từ bi rộng lớn, có vô ngại biện tài. Cũng như Long nữ vốn là lòai rồng (súc sinh), lại mang thân nữ, chỉ mới tám tuổi thôi, nhưng nhờ tu tập, tích chứa công đức phước báu, có tâm tánhý chí của bậc nam nhi trượng phu quân tử (Long nữ biến thànhthân nam), hội đủ điều kiện nhân duyên (thành tựu Lục độ vạn hạnh, chứng đạt tâm thanh tịnh, sạch vô minh phiền não (qua cõi Vô cấu) mà Long nữ đã thành bậc Đẳng Chánh giác.

Theo kinh điển Phật giáo, Rồng là một trong Tám bộ chúng thường theo ủng hộ Phật pháp (Thiên long bát bộ): Thiên (Trời), Long (Rồng), Dạ xoa (Thần Dạ xoa, quỷ Dạ xoa), Kiền thát bà (Thần âm nhạc ở cõi trời, thường tấu thiên nhạc hầu vua trời Đế Thích), A tu la (Phi thiên, các chúng sinh này có phước báu như chư thiên nhưng kém đức, tâm thường sân hận và ưa tranh đấu), Ca lâu la (Kim sí điểu, lòai chim cánh vàng), Khẩn na la (Nhơn phi nhơnhình dáng giống con người nhưng chẳng phải người, là vị thần đánh pháp nhạc cho trời Đế Thích nghe), Ma hầu la già (Thần mình người đầu rắn, bụng to). Trong các thời pháp của Đức Phật đều có sự tham dự của hàng Thiên long bát bộ.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 190)
Phi-bạo-lực là một giải pháp thực tế trước các sự xung đột trong thời đại của chúng ta.
(View: 227)
Phật tử chúng ta thường đặt hoa trên bàn thờ. Chúng ta biết hoa rất đẹp, nhưng đó không phải là mục đích chúng ta đặt chúng ở đấy.
(View: 373)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông.
(View: 394)
Bên ngoài trời đã lạnh. Ra ngoài phải khoác thêm áo ấm; trong nhà phải vặn lò sưởi.
(View: 365)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương.
(View: 428)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sinh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(View: 440)
Trong khi một số vị pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ - bằng cách...
(View: 514)
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹ
(View: 414)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạc và tự do nội tâm.
(View: 477)
Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau.
(View: 480)
Phật tánh là chủ đề của Kinh Đại Bát Niết Bàn và được luận giảng trong Phật tánh luận.
(View: 472)
Phàm làm việc gì muốn được thành công, trước tiên đòi hỏi người ta phải siêng năng.
(View: 456)
Chữ Tánh, Bản tánh, Tự tánh được nói đến trong rất nhiều kinh, luận Đại thừa. Đó cũng chính là mục đích rốt ráo cần tu chứng.
(View: 504)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau trên khắp thế giới
(View: 736)
Hãy quán niệm thật sâu. Một khi có sinh, phải có khổ. Tất cả chúng ta đều phải chịu đựng theo cách đó.
(View: 576)
Khát khao là một cảm xúc tự nhiên của con người, biểu hiện qua mong muốn đạt được điều mà mình cho là quan trọng hoặc cần thiết.
(View: 551)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sanh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(View: 811)
Vipassana và sathama là hai phương phápthiền nổi bật mang đến những trải nghiệm tâm hồn độc đáo.
(View: 707)
Nguyện là lý tưởng, là mục đích, là định hướng cho cuộc hành trình.
(View: 947)
Một trong những đóng góp to lớn của Hoà thượng Thích Minh Châu là sự nghiệpphiên dịch kinh điển.
(View: 631)
Trong kinh Hoa nghiêm Đức Phật có dạy: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”
(View: 604)
Chúng ta có cuộc sống khác nhau trên những giai tầng xã hội, cung bậc tình cảm, cảnh giới tâm linh.
(View: 784)
Khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, ngài đứng trước một lựa chọn trọng đại:
(View: 564)
Ngày xưa, đa phần chùa ở Á Châu được xây dựng trên núi, nên vị Thầy đến đó dựng chùa gọi là Thầy Khai sơn, Trụ trì.
(View: 565)
Sống trong một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến trạng thái tâm của bạn và những quyết định bạn đưa ra.
(View: 752)
Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.
(View: 763)
Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứthiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
(View: 803)
Muốn chuyển hóa cảm xúc thì chúng ta cần chuyển hóa nhận thức trước, đau khổ đơn thuần cũng chỉ là một trạng thái của tâm.
(View: 618)
Bất cứ dược phẩm nào được tìm ra trong thế giới, dù nhiều và đa dạng, không có thứ nào bằng Pháp (trích từ Milindapanha).
(View: 617)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau
(View: 777)
Từ xưa đến nay, chánh ngữ vẫn là yếu tố cần thiết để khẳng định “tính người” trong mỗi cá nhân,
(View: 663)
Sinh, lão, bệnh và tử: những điều này là bình thường. Sinh là bản chất bình thường của sự vật
(View: 707)
Thay đổi, biến động, dịch chuyển vốn là tính chất thường hằngcủa vạn hữu: có sinh ắt có diệt.
(View: 716)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi ngày chúng ta phải quyết định hàng trăm, hàng ngàn lần.
(View: 582)
“Thử tại tâm trung xuất hình ư ngoại” Đó là câu nói của cổ nhân, cũng có thể nói: “ Tâm sanh tướng”.
(View: 820)
Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành.
(View: 842)
Người xuất gia mang trên mình một hoài bão lớn là hướng tâm đến giải thoát tự thân và giúp người khác giải thoát.
(View: 1101)
Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người...
(View: 1013)
Nghe nói đến người tu, tưởng chừng như người ấy làm cái gì to lớn, đội đá vá trời, dời non, lấp biển;
(View: 878)
Ngũ cănngũ lực tiếng Phạn là Pancindriya và Pancabala. Indriya có nghĩa là nguồn gốc, khả năng để tất cả các thiện pháp sinh khởi.
(View: 853)
Nếu người nam hay người nữ nào, hành pháp ác bất thiện, phạm giới; thân thành tựu ác hạnh; khẩu, ý thành tựu ác hạnh;
(View: 918)
Tu theo Giáo môn hoặc Thiền môn, họ tuân theo lời dạy của Phật hoặc Tổ sư, bám chặt vào lời nói của Phật hay Tổ ghi chép
(View: 913)
Ăn chay, không ăn thịt, là một truyền thống cao đẹp hơn ngàn năm nay ở nước ta, phù hợp một cách sâu xa với tinh thần sùng cao của Phật giáo.
(View: 810)
Chuyện người tu hành bị ma quỷ nhiễu hại xưa nay không phải là hiếm. Những bậc Thánh tăng còn bị làm hại huống gì phàm tăng.
(View: 918)
Khi thức dậy, điều gì là điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến?
(View: 926)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm.
(View: 998)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(View: 1015)
Một trong những đặc điểm của đời sống xuất giadu hành. Không thường ở một nơi cố định, Tỳ-kheo có thể tùy duyên vân du giáo hóa.
(View: 957)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da ThứcMạt Na Thức,) được xem là
(View: 1247)
Sinh già bệnh chết là bản chất của đời sống con người. Ai cũng phải trải qua tiến trình này vì có sinh ắt có diệt. Có điều việc này đến với mỗi người nhanh chậm khác nhau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM