Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Rồng Trong Kinh Điển Phật Giáo

20 Tháng Hai 202418:19(Xem: 778)
Rồng Trong Kinh Điển Phật Giáo
Rồng Trong Kinh Điển Phật Giáo 

Phan Minh Đức


3

Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tạiKinh điển Phật giáo có nhiều huyền thọai về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật, Phật hàng phục hỏa long, Long vương nghe kinh Thập thiệnLong nữ thành Phật…

Rồng trong sự kiện đản sinh

Theo kinh Qúa khứ hiện tại nhân quả, khi thái tử Tất đạt đa ra đời có Tứ thiên vương dùng lụa quý của cõi trời đỡ, Trời Đại Phạm thiên và Trời Đế Thích cầm lọng báu đứng hầu hai bên. Lúc này trên không trung có hai vị Long vương phun hai dòng nước ấm và mát tắm cho thái tử. Kinh chép như sau: “…Lúc mặt trời vừa mọc, bà (hòang hậu Ma Da) thấy trong vườn có một cây lớn tên là Vô Ưu, sắc hoa rực rỡ, mùi hương thơm ngát, cành lá bủa rất rộng rất đẹp, liền với tay phải muốn hái hoa kia. Ngay khi đó, Bồ tát từ hông phải bước ra.

Lúc ấy, nơi gốc cây cũng hiện ra bảy hoa sen bảy báu (thất bảo) lớn như bánh xe. Bồ tát đứng trên hoa sen không cần người đỡ, tự đi bảy bước, đưa cánh tay phải lên, cất giọng như sư tử rống: “Trong tất cả trời người, ta là bậc tôn quý nhất; vô lượng sinh tử, hôm nay đã chấm dứt. Đời này ta sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh”. Vừa nói xong, bốn vị Thiên vương lấy lụa trời đỡ lấy Thái tử, đặt trên ghế báu, Thích Đề Hòan Nhơn và Đại Phạm Thiên Vương tay cầm bảo cái đứng hầu hai bên, Long vương Nan ĐàLong vương Ưu Ba Nan Đà ở trên hư không phun một dòng nước ấm, một dòng nước mát trong sạch tắm cho Thái tử. Thân Thái tử màu vàng ròng, có 32 tướng tốt, phóng ánh sáng rực rỡ chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Tám bộ Trời, Rồng ở trên hư khôngtrỗi các kỹ nhạcca tụng khen ngợi, đốt các hương thơm, rải nhiều hoa báu, tuôn xuống như mưa các lọai y trời và anh lạc rực rỡ, không thể tính kể”.

Trong kinh Đại Bổn và Vị tằng hữu pháp cũng có nói: Khi thái tử ra đời, thân không dính một chất dơ nào từ lòng mẹ, có bốn Thiên tử đỡ rồi đặt trước Hòang hậu và thưa: “Hòang hậu hãy hoan hỷ. Hòang hậu vừa sinh một bậc vĩ nhân”. Từ hư không có một dòng nước ấm và một dòng nước mát tắm gội cho thái tử.

Còn trong kinh Phổ Diệu ghi rằng, lúc Thái tử đản sinh có chín con rồng từ trên hư không phun nước xuống tắm cho thái tử. Chín vì huyền thọai chín rồng phun nước mà sau này có câu kệ tándương Đức Phật như sau: “Ngọc chất giáng hòang cung, cửu long phún thủy tề mộc dục” (Bản chấtthanh tịnhtrong sạchquý báu như ngọc giáng sinh ở chốn hòang cung, chín rồng phun nước đồng tắm cho thái tử).

Rồng che mưa cho Đức Phật

Theo Đại Phẩm của Luật tạng, vào tuần lễ thứ ba sau khi thành đạo, khi Đức Phật ngồi thiền định dưới gốc cây Mucalinda thì mưa to gió lớn nổi lên, một con rắn mãng xà đến quấn quanh mình Ngài và cất cao đầu lên che mưa cho Ngài. Trong Đức Phật và Phật pháp của Ngài Nàrada Mahà Thera (Phạm Kim Khánh dịch) ghi sự kiện này xảy ra vào tuần thứ sáu sau khi Phật thành đạothời gian Đức Phậtchứng nghiệm hạnh phúc giải thóat. Trận mưa bão kéo dài suốt bảy ngày mới chấm dứt. Khi trời quang mây tạnh, con mãng xà tháo mình trở ra và hóa hiện thành một thanh niên chắp tay đứng trước Đức PhậtĐức Phật đã nói cho người thanh niên nghe một bài kệcó nội dung như sau: “Đối với hạng người tri túc, đối với người đã nghe và đã thấy chân lý thì sống ẩn dật là hạnh phúc. Trên thế gian, người có tâm lành, có thiện chí, người biết tự kiềm chế, thu thúc lục căn đối với tất cả chúng sinh là hạnh phúc. Không luyến áingười, vượt lên khỏi dục vọng là hạnh phúc. Phá tan được ngã chấp quả thật là hạnh phúc tối thượng”.

Câu chuyện rắn thần che mưa cho Đức Phật khi truyền sang Trung Hoa đã chuyển thành câu chuyện rồng thần che mưa cho Đức Phật. Chính vì thế mà trong nhiều chùa có tranh ảnh, phù điêu khắc họa hình ảnh Đức Phật ngồi nhập định dưới gốc cây giữa trời mưa to gió lớn, có rồng thần quấn quanh mình và cất cao đầu che mưa cho Ngài. Trong các huyền thọai về Đức Phật được ghi lại trong kinh điển, sau khi lưu truyền qua các nước Trung Hoa, Việt Nam..., hình ảnh rồng thần được thay cho hình ảnh rắn thần. Cũng như trong sự kiện trên (Rắn thần che mưa cho Đức Phật), trong sự kiện Đức Phật hàng phục độc xà (sẽ nói  ở phần sau), các kinh điển Bắc truyền ghi lại hình ảnh một con hỏa long (rồng lửa) thay vì là một con rắn độc. Đối với người Ấn Độ thì rắn là con vật thiêng liêng trong khi ở các nước Trung Hoa, Việt Nam thì rồng là linh vật. 

Phật hàng phục hỏa long

Trong kinh Qúa khứ hiện tại nhân quả có thuật lại rằng: Đức Phật muốn hóa độ ba anh em ông Ưu lâu tần loa Ca diếp và các đệ tử của họ, bèn đi đến bờ sông Hằng, nơi họ và các đệ tử trú ngụ.

Khi Đức Phật đến nơi thì trời đã tối, Ngài bèn hỏi ông Ca diếp: “Tôi đi lỡ đường, xin ông cho tôi nghỉ nhờ một đêm”. Ông Ca diếp từ chối: “Rất tiếc, ở đây đồ chúng quá đông, không có chỗ nào để mời Ngài nghỉ lại”. Đức Phật nói: “Chỗ nào cũng được. Tôi chỉ xin nghỉ nhờ một đêm thôi”. Ông Ca diếpbèn chỉ về phía một hang động gần đó rồi bảo: “Nơi kia có thể nghỉ tạm được. Tiếc rằng trong đó có một con hỏa long rất dữ, người lạ vào e bị nó làm hại”. Đức Phật nói: “Không sao đâu. “Ngã nội thanh tịnh, ngọai tai bất nhập”(Bên trong ta thanh tịnhtai họa bên ngòai không xâm hại được. Xin ông vui lòng để tôi ở lại nơi đó”.

Đức Phật vào trong hang động, hỏa long nghe hơi lạ bèn bay ra, phun khói độc vào Ngài. Nhưng khi khói độc gần đến chỗ Phật thì bay ngược trở lại. Hỏa long bèn phun lửa, nhưng khi lửa gần đến chỗ Phật thì cháy ngược trở lại hỏa long. Đức Phật bèn nhập định Hỏa quang tam muội hóa lửa cháy sáng cả hang động, lửa của hỏa long bị đẩy lùi. Đức Phật từ bi bảo với nó: “Ngươi đã thấy phép thuật của ngươi còn thấp kém chưa?”  Đức Phật bèn đưa bình bát ra và nói: “Ngươi hãy vào đây để tránh lửa”. Hỏa long vội thu mình bay vào trong bát của Đức Phật.

Về sau, ba anh em ông Ca diếp và các đồ chúng nhận thấy thần lực và đức độ của Đức Phật không ai sánh bằng, họ đã xin quy y theo Phật.

Long nữ thành Phật

Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm thứ 12 Đề Bà Đạt Đa có nói sự kiện Long nữ, con gái Long vương thành Phật như sau:

“Lúc bấy giờ, Bồ tát Trí Tíchthị giả của Phật Đa Bảo bạch xin phép Phật Đa Bảo trở về nước. Đức Phật Thích Ca mới bảo Bồ tát Trí Tích: “Thiện nam tử, hãy chờ giây lát. Ở đây có Bồ tát Văn Thù, ông và Văn Thù có thể cùng nhau ra mắt mà luận nói pháp mầu, xong rồi sẽ về”.

Ngay khi ấy, Bồ tát Văn Thù và các Bồ tát tùy tùng ngồi trên hoa sen lớn, từ nơi cung Rồng (Long cungTa kiệt la trong biển lớn bay lên hư không, rồi bay đến núi Linh Thứu, từ hoa sen bước xuốngđảnh lễ Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca, kế đến hỏi thăm Bồ tát Trí Tích, sau đó ngồi qua một bên.

Bồ tát Trí Tích bèn hỏi Bồ tát Văn Thù: “Ngài qua cung Rồng hóa độ được bao nhiêu chúng sinh?” Bồ tát Văn Thù đáp: “Vô lượng. Nếu Ngài không tin, sẽ tự chứng biết”.

Bồ tát Văn Thù nói chưa dứt lời thì có vô số Bồ tát ngồi hoa sen từ biển bay lên đến núi Linh Thứu, trụ trên hư không, tất cả đều do Bồ tát Văn Thù hóa độBồ tát Văn Thù nói: “Ở biển, ta thường tuyên thuyết kinh Diệu Pháp”. Bồ tát Trí Tích hỏi: “Kinh này rất thâm diệu. Vậy có chúng sinh nào siêng tu theo kinh này mà mau thành Phật không?” Bồ tát Văn Thù đáp: “Có con gái của Long vương, mới lên tám tuổi mà đầy đủ trí đức, trong khỏanh khắc phát Bồ đề tâm, được bậc bất thối chuyểnbiện tài vô ngạitừ bi rộng lớn, công đức đầy đủ, có khả năng đến Bồ đề”.

Bồ tát Trí Tích không tin hỏi: “Chính Đức Phật Thích Ca còn phải trải qua vô lượng kiếp tu tạo nhiều công đức, làm những hạnh khó làm mới thành đạo Bồ đề, làm sao tin được Long nữ trong chốc lát mà chứng thành Chánh giác”.

Đàm luận chưa xong, Long nữ bỗng hiện racung kính đảnh lễ Phật rồi đứng qua một bên, nói kệ xưng tán pháp thân và cho biết nhờ nghe được diệu pháp mà nàng đã thành Bồ đề, nhưng việc này chỉ Phật chứng biết mà thôi. 

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Long nữ: “Thân gái nhơ uế, có năm điều chướng ngại, còn con đường Phật đạo xa diệu vợi, phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ mới đi hết, mà ngươi nói tu không bao lâu đã chứng được vô thượng Chánh giác. Làm sao tin được?” Long nữ bèn lấy một hạt châu hiến dâng Đức Phật Thích CaĐức Phật thọ nhận. Bấy giờ Long nữ hỏi Bồ tát Trí Tích: “Tôi hiến châu, Thế Tôn nhận lấy, việc ấy có mau chăng?” Bồ tát Trí Tích đáp: “Mau”. Bấy giờ Long nữ nói: “Ông hãy lấy thần lực của ông xem đây, tôi thành Phật còn mau hơn việc đó”.

Chúng hội liền thấy Long nữ thọat nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ tát, qua cõi Vô cấu phương nam, ngồi hoa sen báu, thành bậc Đẳng Chánh giác”.

Câu chuyện Long nữ thành Phật có ý nghĩa cao sâu: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, dù là lòai nào, nam, nữ, già, trẻ, bé, lớn đều có khả năng thành Phật nếu như đầy đủ trí tuệ và công đứcphước báu, tu hành không thối chuyển, có tâm từ bi rộng lớn, có vô ngại biện tài. Cũng như Long nữ vốn là lòai rồng (súc sinh), lại mang thân nữ, chỉ mới tám tuổi thôi, nhưng nhờ tu tập, tích chứa công đức phước báu, có tâm tánhý chí của bậc nam nhi trượng phu quân tử (Long nữ biến thànhthân nam), hội đủ điều kiện nhân duyên (thành tựu Lục độ vạn hạnh, chứng đạt tâm thanh tịnh, sạch vô minh phiền não (qua cõi Vô cấu) mà Long nữ đã thành bậc Đẳng Chánh giác.

Theo kinh điển Phật giáo, Rồng là một trong Tám bộ chúng thường theo ủng hộ Phật pháp (Thiên long bát bộ): Thiên (Trời), Long (Rồng), Dạ xoa (Thần Dạ xoa, quỷ Dạ xoa), Kiền thát bà (Thần âm nhạc ở cõi trời, thường tấu thiên nhạc hầu vua trời Đế Thích), A tu la (Phi thiên, các chúng sinh này có phước báu như chư thiên nhưng kém đức, tâm thường sân hận và ưa tranh đấu), Ca lâu la (Kim sí điểu, lòai chim cánh vàng), Khẩn na la (Nhơn phi nhơnhình dáng giống con người nhưng chẳng phải người, là vị thần đánh pháp nhạc cho trời Đế Thích nghe), Ma hầu la già (Thần mình người đầu rắn, bụng to). Trong các thời pháp của Đức Phật đều có sự tham dự của hàng Thiên long bát bộ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1540)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1398)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1250)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1323)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1381)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1356)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1480)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1376)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1442)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1438)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1330)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1395)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1403)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2105)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1444)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1464)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1332)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1585)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1449)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1297)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1264)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1324)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1298)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1446)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1170)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1160)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1208)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1350)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1373)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1127)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1254)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1180)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1353)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1329)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1479)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1573)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1324)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1278)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1424)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1475)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1386)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1731)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1366)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1345)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1396)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1227)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1267)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1393)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1518)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant