TỪ NGUỒN
DIỆU PHÁP
Thích
Nữ Trí Hải
Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội 2003
6.
NIẾT BÀN SINH TỬ
Luồng
gió
thanh bình ngày Phật Đản gợi cho con một ít suy tư. Lạy
Phật, phước đức nào đã khiến con gặp được Chánh pháp
vi diệu, được dự vào hàng ngũ xuất gia? Tội nghiệp nào
đã đưa đẩy con sống quá xa thời Phật? Một kẻ sát nhân
tắm máu như Angulimàla khi được gặp Phật cũng thành Thánh,
dâm nữ Ambapali nhờ diện kiến từ nhan cũng đã chứng quả
dễ
dàng.
Còn
ngày nay thì ôi, khó quá. Tu hành bao nhiêu cũng như nước
đổ lá môn. Phiền não tham sân đôi khi tưởng đã tạm yên,
đến khi gặp duyên hóa ra vẫn còn nguyên vẹn. Giai do vì không
được sinh đồng thời với Phật.
Những
lời
Thế Tôn dạy thật đơn giản: “Không có gì là ta hay
của ta”. Con có thể thấy rõ chân lý này vào một ngày chủ
nhật đi dạo phố. Thật không có một chút gì là ta hay của
ta giữa cái biển người và vật hỗn độn ấy. Nhưng bỗng
nhiên, một vị Tôn giả chúng sinh khởi lên ý nghĩ: “Ta phải
lấy cái đồng hồ kia. Nó phải thuộc về của ta”. Rồi
vị ấy đến cướp giật, làm khổ chủ la lên, cảnh sát
nổ súng xông lại. Thế là máu đổ, tù đày, hình phạt,
tội lỗi phát sinh chỉ vì nhận lầm cái không ta làm cái
có ta vậy. Nên Thế Tôn dạy, chỗ nào còn bóng dáng cái ngã
là chỗ ấy còn đau khổ, trói buộc.
Phật
còn
dạy thêm một lời thâm thúy: “Thà chấp thân là ta còn
ít nguy hiểm hơn chấp tâm là ta”. Nghĩa là, nếu có “duy”
gì, thì thà duy vật hơn duy tâm vậy.
“Sung
sướng
thay chúng ta sống không sở hữu!” Một vị Thánh
đệ tử đắc đạo đã thốt ra lời cảm hứng như vậy trong
Trưởng lão kệ . Chỉ ngày nay người ta mới thấm lời nói
đơn giản ấy, tưởng rằng không sở hữu thì có nghĩa là
không có tư sản. Nhưng kỳ thực câu nói kia có mật ý sâu
xa, vì được thốt lên bởi một bậc A la hán, và chỉ có
vị này mới thực sự không còn sở hữu vì đã hoàn toàn
thoát khỏi ngã chấp. Người chưa chứng quả thì dù là một
nhà khổ hạnh không đất cắm dùi, không cả đến cái dùi,
cũng vẫn còn sở hửu, vì còn cái ngã là còn đủ mọi sự,
với năm thủ uẩn nguồn gốc của mọi khổ đau. Trong tất
cả sở hữu, tư tưởng là cái khó bỏ nhất.
Nhưng
người
ta chỉ tư duy về những gì mình ưa thích. Bởi thế
gốc rễ của tư duy là khát ái–tanhà. Một người vô ngã
thực sự là người đã cắt đứt gốc rễ của khát ái này;
hoàn toàn độc lập, không dính mắc một cái gì dù thuộc
vật chất hay tinh thần. Người ấy được Phật mệnh danh
là con người “độc cư lý tưởng”, hoàn toàn sống một
mình, không ở chung với một pháp thứ hai. Một người dù
sống ở núi rừng mà tâm tư còn vướng mắc cái đã qua,
cái chưa tới, còn luyến tiếc hy vọng, thì vẫn chưa phải
là người độc cư lý tưởng. Trái lại một người dù sống
ở chỗ đông người nhưng đã cắt đứt khát ái liên hệ
đến ngã thì cũng được xem là độc cư lý tưởng khi phá
tan được dục vọng, ngã chấp. Vị ấy luôn luôn sống trong
hiện tại, hoàn toàn buông xả, tâm tư như con thú rừng, hồn
nhiên, vô úy. Một người như thế sẽ bình tĩnh trước mọi
chuyển biến, sáng suốt đối diện với thực tại trong tinh
thần trách nhiệm, không oán hận, nguyền rủa. Vị ấy có
thể chuyển hóa nghiệp lực thành nguyện lực, biến độc
dược thành cam lồ, đi vào địa ngục thì địa ngục biến
thành an vui, và lửa đỏ cũng hóa hiện được sen hồng. Đó
là diệu dụng, là sức mạnh của chân lý khi được sống,
được thể hiện trọn vẹn nơi một con người, khi pháp (dhamma)
đã trở thành tùy pháp (anudhamma), một “chân lý tùy thân”
thể nhập vào người. Do đó kinh Lăng già có những lời bóng
bẩy khi tả đức Phật: “Khi Thế Tôn dời gót đến một
nơi nào, thì nơi ấy cây lá trở nên xanh tươi, hoa trái đơm
đầy suối ngàn reo vui, đàn cầm không ai gảy mà ngân lên
những âm thanh vi diệu”. Đó là cốt nói lên diệu dụng
sự hiện diện của bậc Thánh có năng lực chuyển hóa cả
đến vật vô tri.
Lý
vô
ngã bao trùm cả các pháp yếu khác như Khổ và Niết bàn.
Có khổ nhưng không có người khổ. Có Niết bàn nhưng không
có cái ngã nhập Niết bàn. Người bị khổ dày xéo luôn luôn
có ảo tưởng rằng bao nhiêu oan nghiệp ở trần gian, con tạo
dành để trút lên đầu mình. Ai cũng thấy mình khổ nhất,
không ai thấy mình khổ nhì, nguyên nhân vì ngã chấp. Thế
nên mới có chuyện tự tử. Tự tử là vì thấy mình khổ
quá chịu không nổi. Nếu có ai hỏi sao người hàng xóm chịu
được thì họ trả lời ngay rằng tại ông hàng xóm không
khổ bằng tôi. Nhưng nếu nhìn một cách tỉnh táo hơn, nhìn
thẳng vào sự khổ đang thấm lan mỗi người một ít, mỗi
người một cách, thì quả thật chỉ có sự khổ, không có
con người khổ ở đằng sau sự khổ. Con người là một tổ
hợp năm uẩn, và chính tổ hợp ấy đã là khổ rồi còn
ai vào đó nữa. Cho nên nói rằng "tôi khổ" đã là thừa chữ
tôi, là trên đầu còn gắn thêm một cái đầu.
Niết
bàn
cũng thế. Có Niết bàn nhưng không có cái ngã nào nhập
Niết bàn. Bởi vì nói ngã nhập Niết bàn thì hóa trong Niết
bàn còn có ngã, tức có khổ, và câu ấy thành ra mâu thuẫn,
vì Niết bàn là hạnh phúc tuyệt đối. “Không có ngã thì
ai nhập Niết bàn?”. Người ta hay đặt câu hỏi như vậy.
Làm như thể muốn nhập Niết bàn phải có ngã mới được,
không có ngã không xong. Nhưng nói như vậy là không hiểu gì
về niết bàn và quá đề cao cái ngã. Ngã chỉ là một dụng
cụ của đau khổ, hơn nữa nó chính là sự đau khổ. Cũng
như xe chỉ dùng để chạy trên mặt đất. Không ai đặt câu
hỏi “Không có xe làm sao chạy lên trời?”
Nói
về
tâm hồn con người, một dụng cụ của khổ, Chateaubriand
có câu: “Tâm hồn chúng ta là một nhạc cụ bất túc, một
cây đàn thiếu dây, ở trên đó chúng ta bắt buộc phải gảy
những khúc vui trên những cung bực chỉ dành cho điệu thở
dài” (Notre coeur est un instrument incomplet, une lyre ou il manque
des cordes, et où nous sommes forcés de rendre les accents de la joie
sur le ton consacré au soupir). Tâm hồn con người chưa giác ngộ
là như vậy, cho nên những kiệt tác văn học của nhân loại
phần lớn đều là những thiên bi kịch và trường hận ca.
Thi hào Pháp Alfred de Musset nói:
Lời
tuyệt
vọng là lời ca đẹp nhất
Và
tôi
biết những bài ca bất tử chỉ thuần là điệu thổn
thức não nùng
(Les
plus
désespérés sont les chants les plus beaux. Et j'en sais d'immortels
qui sont de purs sanglots)
Con
người
càng dồi dào từ ngữ và tài liệu để diễn tả
nỗi khổ bao nhiêu, thì lại có vẻ nghèo nàn thiếu thốn
khi cần diễn tả hạnh phúc bấy nhiêu. Khi những vở kịch
đến giai đoạn nhân vật bắt đầu hết cơn bỉ cực, thì
màn cũng từ từ hạ. Dù có diễn thêm cũng không ai xem, vì
các cảnh vui vầy sum họp phần lớn đều giống nhau, đều
tẻ nhạt đáng nhàm. Dường như hạnh phúc không phải là
cái cần diễn đạt, hay vì thiếu tài liệu để diễn tả
hạnh phúc. Ngay dù khi tả một cảnh vui, thì cái vui ấy cũng
“nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”, cũng chỉ là trá
hình của khổ. Keats nói:
Nụ
cười
chân thật nhất
Thường
vẫn
nhuốm đau thương
Tiếng
ca
êm ái nhất
Thường
vang
dội ý buồn,
(our
sincerest
laughter
with
some
pain is fraught
our
sweetest
songs are those
which
tell
of saddest thought)
Tâm
hồn
con người đã là một khí cụ bất túc, một khí cụ
chỉ dành để diễn đạt và cảm thọ khổ đau, thì làm sao
hiểu được Niết bàn là hạnh phúc tuyệt đối, bất khả
tư nghì? Một nhà thơ Phật giáo viết:
Nợ
tử
sinh chưa ra hhỏi sáu đường
Làm
sao
thoáng được mùi hương vô tận?
Nói
đúng
hơn, khi ngã hoàn toàn tiêu diệt thì có Niết bàn. Vậy
thì ai Niết bàn. Trả lời câu hỏi này, có lẽ Phật cũng
đã lúng túng, vì biết trình độ chúng ta không hiểu nỗi.
Nên Ngài chỉ dạy một bài kệ, ai hiểu sao thì hiểu:
Vô
hữu
niết bàn Phật
Vô
hữu
Phật niết bàn
Viễn
ly
giác, sở giác
Mâu
ni
tịch tịnh quán
Thị
tắc
yểm ly sanh
Thị
danh
vi bất thủ
Kim
thế
hậu thế tịnh
(Kinh
Lăng Già)
Không
Phật
vào niết bàn
Không
niết
bàn của Phật
Xa
lìa
biết bị biết
Bậc
thánh
lặng quan sát
Nhờ
vậy
sanh nhàm chán
Ấy
là
không ôm giữ
Đời
này
lẫn đời sau.
Khi
ngã
chấp tiêu diệt thì khổ hết, Niết bàn hiển lộ, như
mây tan thì trăng hiện. Ảo tưởng về ngã vướng vào đâu
thì khổ đó, ảo tưởng về ngã tan đi ở đâu thì Niết
bàn ở đó. Cho nên Khổ hay Niết bàn, cả hai vừa ở khắp
nơi, vừa không ở nơi nào, như câu ngạn ngữ “họa phúc
vô môn, duy nhân tự triệu” (họa phước không có cửa, chỉ
do người tự rước vào). Kinh Pháp Hoa có câu:
Chư
pháp
tùng bản lai
Thường
tự
tịch diệt tướng
Có
nghĩa
rằng bản thể các pháp vẫn thường Niết bàn, không
một dấu vết của dục vọng đau khổ. Khi nói “Niết bàn
là vắng lặng không còn khổ đau, dục vọng” người ta thường
đồng hóa Niết bàn với cõi chết hoặc trạng thái vô vi
thụ động như pho tượng. Có người cho rằng tu thành Phật
để leo lên tòa sen ngồi làm thinh cho thiên hạ hì hục lạy,
thì cũng chẳng được cái tích sự gì. Làm như thể thành
Phật thì chỉ có thành một cái tượng xi măng mà thôi. Mãn
Giác thiền sư phải thêm hai câu để ám chỉ diệu dụng của
niết bàn:
Xuân
đáo
bách hoa khai
Hoàng
anh
đề liễu thượng
Vì
trong
cái thể vắng lặng tịch diệt kia, hàm ẩn một nguồn
sống vô tận như thiên nhiên vốn im lặng, mà đến khi xuân
về thì muôn hoa khoe sắc:
Xuân
đến
trăm hoa cười
Oanh
vàng
ca liễu thắm
Niết
bàn,
cứu cánh của phạm hạnh cũng vậy, có một diệu dụng
khôn lường. Con người chỉ thật là người khi biết kềm
chế dục vọng phát sinh từ ngã chấp, và khi ngã chấp hoàn
toàn tiêu diệt, con người ấy trở thành bất tử. Đức Thích
Tôn của chúng ta là một Con Người như vậy. Ngài đã từ
bỏ tất cả ngai vàng điện ngọc để trở thành một khất
sĩ nghèo khổ lang thang rày đây mai đó, từ trần dưới một
gốc cây, thế mà cuộc đời Ngài đã trở thành nguồn cảm
hứng bất tận cho hàng triệu người. Giáo lý của Ngài truyền
lan khắp nhân loại suốt trên 25 thế kỷ, làm lợi lạc cho
vô số sinh loài, kể cả những chúng sinh bé bỏng. Đó không
phải là diệu dụng của Niết bàn hay sao?
Niết
bàn
tuy vậy, vẫn không phải là cái gì ta có thể đi tìm
mà được, vì có tìm kiếm tức đã bao hàm cái ngã đang tìm
kiếm khát khao, vậy là đã có đau khổ. Nói rằng “tôi khát
khao thành Phật” hay “làm sao để tôi phá trừ được ngã
chấp”, cũng phi lý như nói “tôi làm sao rèn luyện được
đức nhũn nhặn, khiêm tốn" mặc dù nghe qua rất hợp lý.
Nhưng cái tôi nào muốn tự xóa mình, nỗ lực để phá trừ
ngã chấp, thì vô tình đã làm cho ngã hiện lù lù ra đó một
cách còn rõ rệt hơn, như khi một người nào muốn biểu lộ
sự khiêm tốn của họ vậy! “Làm cách nào” ám chỉ một
đường lối, phương pháp, kỹ thuật... là những thứ thuộc
lĩnh vực chính trị, khoa học. Đạo trái lại, chỉ là một
cái nhìn. Pàli có từ ngữ Ehi passika chỉ đạo Phật là đạo
đến để mà thấy: Khi thấy rõ thân ngũ uẩn này là cát
bụi giữa thời-không vô cùng, đời sống dăm ba chục năm
của cái thân ấy trên mặt đất chỉ là một chút bọt nước
trên đại dương hiện tượng sinh diệt tiếp nối vô tận,
thì ngã chấp tự tiêu tan như sương mai gặp ánh nắng mặt
trời, còn gì mà phải diệt trừ với nỗ lực. Một Thiền
sư bảo, mong cầu thành Phật thì vị Phật ấy chính là nguồn
gốc của luân hồi sinh tử. Khi được hỏi: “Làm sao tôi
thoát được bánh xe luân hồi?” Một Thiền sư hỏi lại:
“Ai buộc ngươi vào đó?” Đạo là một cái cửa không lối
vào, hay một lối vào không cửa: vô môn quan. Đạo không có
đường lối khuôn phép nào cả, đường của đạo là đường
chim bay không có hành tung dấu vết. Kinh Lăng Già lấy biểu
tượng một ngọn núi cao chót vót đứng cheo leo bên biển,
chỉ có ai đắc thần thông mới lên được, và thần thông
ấy chỉ cho thánh trí tự chứng, tự tu hành để thể hiện
chân lý, không ai có thể truyền dạy
cho
ai.
Do đó mà đức Phật đã dè dặt bảo: “Trong 49 năm thuyết
pháp, ta chưa từng nói một lời”. Bởi vì, dù Ngài có khô
cổ rát họng để truyền trao giáo pháp, Ngài vẫn không sao
nói ra được cái điều duy nhất đáng nói, mà chỉ phải
nói quanh quẩn bằng ẩn dụ, truyện xưa tích cũ theo đúng
kiểu cách một nhà mô phạm khuyên cái này nên làm, cái kia
nên tránh, toàn những điều thuộc kỹ thuật tu hành hơn là
tâm điểm của đạo là cái không thể nói. Không thể nói,
có lẽ vì vừa quá đơn giản vừa quá phức tạp như hơi
thở, có lẽ vì tâm hồn chúng ta quá rắc rối kiêu căng không
muốn chấp nhận rằng chân lý, Niết bàn là cái gì ở ngay
trong những sự vật tầm thường gần gũi. Chúng ta ưa tìm
kiếm cao xa và ưa nghĩ rằng những cái chúng ta đang tìm kiếm
phải rất thiêng liêng huyền bí. Chúng ta vô tình quên thực
tế là, những nhu yếu phẩm như nước uống, không khí, những
thứ tối cần, quý báu nhất cho đời sống vốn dĩ được
phân phối đồng đều cho mọi sinh vật, không có tiêu chuẩn.
Chân lý hay Niết bàn cũng vậy vốn là của kho vô tận dành
cho tất cả mọi người. Thế mà vì thiếu giản dị, vì quá
kiêu căng, vì nghiệp lực buộc ràng, chúng ta cứ mãi mãi
thiếu thốn khát khao, mong cầu tìm kiếm, kết quả là càng
tìm càng xa, càng mong càng vắng. Như lời Phật dạy trong kinh
Niết bàn, “chúng ta như kẻ ngu đi tìm hư không, chạy khắp
đông tây nam bắc không nơi nào bắt được hư không”. Lại
có người thấy ngã quá đau khổ, muốn thoát ly bằng cách
tự hủy diệt, có biết đâu ngã đã là không thì có gì phải
diệt. Kẻ ấy chẳng khác nào “như người sợ hư không mà
trốn chạy khắp đông tây nam bắc không nơi nào thoát khỏi
hư không”.
Đó
là
tất cả bí ẩn của đau khổ và giải thoát, của Sinh
tử và Niết bàn.