Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Phẩm Thế-giới thành-tựu

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 20824)
04. Phẩm Thế-giới thành-tựu

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM THẾ GIỚI THÀNH TỰU
THỨ TƯ

Lúc bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát ma-ha-tát, do thần-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả thế-giới-hải, tất cả chúng-sanh-hải, tất cả chư Phật-hải, tất cả pháp-giới-hải, tất cả chúng-sanh-nghiệp-hải, tất cả chúng-sanh-căn-dục-hải, tất cả chư Phật-pháp-luân-hải, tất cả tam-thế-hải, tất cả Như-Lai nguyện-lực-hải, tất cả Như-Lai thần-biến-hải.

Quan-sát xong, Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo khắp tất cả chư Bồ-Tát trong chúng hội đạo-tràng rằng : 'Chư Phật-tử ! Chư Phật Thế-Tôn có trí-huệ thanh-tịnh bất-tư-nghì biết tất cả thế-giới-hải thành-hoại, biết tất cả chúng-sanh nghiệp-hải, biết tất cả pháp-giới an-lập-hải, nói tất cả vô-biên Phật-hải, vào tất cả căn-dục-hải, một niệm biết khắp tất cả tam-thế, hiển-thị tất cả Như-Lai vô-lượng-nguyện-hải, thị-hiện tất cả Phật thần-biến-hải, chuyển pháp-luân, kiến-lập diễn-thuyết-hải, thanh-tịnh Phật-thân, vô-biên sắc tướng-hải Phổ-chiếu-minh, tướng-hảo và tùy hình-hảo đều thanh-tịnh, vô-biên sắc-tướng quang-minh luân-hải, cụ-túc thanh-tịnh, các thứ sắc-tướng quang-minh vân-hải, thù-thắng bửu-diệm-hải, thành-tựu ngôn âm-hải, thị hiện ba thứ tự-tại điều-phục thành thục tất cả chúng-sanh, dũng mãnh điều-phục chúng-sanh hải không luống qua, an-trụ Phật-địa, vào cảnh-giới Như-Lai, oai-lực hộ-trì, quan-sát tất cả chỗ làm của Phật-trí, trí-lực-viên-mãn không ai điều-phục được, công-đức-vô-úy không ai hơn, trụ nơi tam-muội vô-sai-biệt, thần-thông biến-hóa, trí-thanh-tịnh-tự-tại, tất cả Phật-pháp không ai hủy hoại được.

Tất cả pháp bất-tư-nghì như vậy, tôi sẽ thừa thần-lực của Phật và oai-thần của tất cả Như-Lai mà tuyên-thuyết đầy đủ. Vì muốn khiến chúng-sanh vào trí-huệ-hải của Phật, vì muốn khiến tất cả Bồ-Tát được an-trụ trong biển công-đức của Phật, vì muốn khiến tất cả thế-giới-hải, tất cả Phật tự-tại được trang-nghiêm, vì muốn khiến trong tất cả kiếp-hải chủng-tánh Phật thường chẳng dứt, vì muốn khiến trong tất cả thế-giới-hải hiển thị tánh chơn thật của các pháp, vì muốn khiến tùy vô-lượng sự hiểu biết của chúng-sanh mà diễn-thuyết, vì muốn khiến tùy căn-hải của tất cả chúng-sanh mà phương-tiện làm cho sanh Phật-pháp, vì muốn tùy chỗ ưa thích của tất cả chúng-sanh mà dẹp phá tất cả núi chướng ngại, vì muốn khiến tùy tâm-hành tất cả chúng-sanh khiến tu-tập thanh-tịnh đạo xuất-yếu, vì muốn khiến tất cả Bồ-Tát an-trụ trong nguyện-hải Phổ-Hiền.

Lúc đó, Phổ-Hiền Bồ-Tát lại muốn khiến chúng hội đạo-tràng sanh lòng hoan-hỷ, thêm lớn sự ưa thích đối với tất cả pháp, sanh lòng tin rộng lớn chơn-thật thanh-tịnh pháp-giới-thân, an-lập nguyện-hải Phổ-Hiền tu tập vào trí nhãn tam thế bình-đẳng, thêm lớn trí-huệ chiếu khắp tất cả thế-gian, sanh đức đà-la-ni trì tất cả pháp-luận, và cũng muốn trong tất cả đạo-tràng tất cả Phật cảnh-giới đều khai-thị, mở bày tất cả pháp-môn của Như-Lai, thêm lớn tất cả trí-tánh pháp-giới rộng lớn rất sâu, liền nói kệ rằng :

Trí-huệ công-đức biển rất sâu

Hiện khắp mười phương vô-lượng cõi

Tùy các chúng-sanh chỗ nên thấy

Quang-minh soi khắp chuyển pháp-luân.

Thập phương quốc-độ bất-tư-nghì 

Phật vô-lượng kiếp đều nghiêm tịnh

Vì độ chúng-sanh khiến thành thục

Xuất hiện tất cả các quốc-độ.

Phật cảnh rất sâu khó nghĩ được

Khắp dạy chúng-sanh khiến được vào

Lòng họ thích nhỏ chấp hữu-lậu

Chẳng thông đạt được cảnh-giới Phật.

Nếu có lòng tin trong sạch chắc

Thường được gần gũi thiện-tri-thức

Tất cả chư Phật hộ niệm cho

Ðây mới được vào Như-Lai trí.

Lìa các dua dối lòng thanh-tịnh 

Thường thích từ-bi tánh hoan-hỷ 

Chí nguyện rộng lớn tin hiểu sâu

Kia nghe pháp này lòng vui đẹp.

An-trụ Phổ-Hiền những hạnh nguyện

Tu hành Bồ-tát đạo thanh-tịnh 

Quan-sát pháp-giới như hư-không 

Bèn biết được chỗ làm của Phật.

Chư Bồ-Tát đây được lợi lành

Thấy Phật tất cả thần-thông-lực

Tu những đạo khác không biết được

Học hạnh Phổ-Hiền mới tỏ ngộ.

Chúng-sanh rộng lớn vốn vô-biên

Như-Lai tất cả đều hộ-niệm

Chuyển chánh-pháp-luân khắp mọi nơi

Cảnh-giới Tỳ-Lô-Gía-Na Phật.

Tất cả cõi nước vào thân tôi

Chỗ chư Phật ngự cũng như vậy

Chúng nên xem các chân lông tôi

Nay tôi hiện bày cảnh-giới Phật.

Phổ-Hiền hạnh nguyện không ngằn mé

Tôi đã tu hành được đầy đủ

Cảnh-giới phổ-nhãn thân rộng lớn 

Là Phật chỗ làm phải nghe kỹ.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có mười việc mà chư Phật trong ba đời quá-khứ, hiện-tại, vị-lai đã nói, hiện nói và sẽ nói.

Những gì là mười ?

Chính là nhơn-duyên khởi thế-giới-hải, chỗ trụ-nương của thế-giới-hải, hình-trạng của thế-giới-hải, thể-tánh của thế-giới-hải, sự trang-nghiêm của thế-giới-hải, sự thanh-tịnh của thế-giới-hải, Phật xuất hiện nơi thế-giới-hải, kiếp trụ của thế-giới-hải, kiếp chuyển biến sai biệt của thế-giới-hải, môn vô-sai-biệt của thế-giới-hải.

Chư Phật-tử ! Lược nói thế-giới-hải có mười việc này. Nếu nói rộng ra thời đồng với thế-giới-hải vi-trần-số mà tam-thế chư Phật đã nói, hiện nói và sẽ nói.

Chư Phật-tử ! Lược nói do mười thứ nhơn-duyên mà tất cả thế-giới-hải đã thành, hiện thành và sẽ thành. Chính là do vì thần-lực của Như-Lai, vì pháp phải như vậy, vì hạnh nghiệp của tất cả chúng-sanh, vì chỗ sở đắc của tất cả Bồ-Tát thành nhứt-thiết-trí, vì các chúng-sanh và chư Bồ-Tát đồng chứa nhóm thiện-căn, vì nguyện-lực nghiêm-tịnh Phật-độ của chư Bồ-Tát, vì hạnh-nguyện thành-tựu bất-thối của chư Bồ-Tát, vì thắng-giải tự-tại thanh-tịnh của chư Bồ-Tát, vì chỗ lưu-xuất do thiện-căn của chư Như-Lai và thế-lực tự-tại lúc chư Phật thành đạo, vì nguyện-lực tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát.

Chư Phật-tử ! Ðó là lược nói mười thứ nhơn-duyên. Nếu rộng nói thời có thế-giới-hải vi-trần-số.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương mà nói kệ rằng :

Ðã nói vô-biên sát-độ-hải

Tỳ-Lô-Gía-Na đều nghiêm-tịnh

Thế-Tôn cảnh-giới bất-tư-nghì 

Trí-huệ thần-thông-lực như vậy.

Bồ-Tát tu hành những nguyện-hải

Khắp tùy chúng-sanh tâm chỗ muốn

Chúng-sanh tâm hạnh rộng vô-biên 

Bồ-Tát quốc-độ khắp mười phương 

Bồ-Tát thẳng đến nhứt-thiết-trí

Siêng tu các môn tự-tại-lực

Vô-lượng nguyện-hải khắp xuất sanh

Sát-độ rộng lớn đều thành-tựu.

Tu những hạnh-hải vô-lượng-biên

Vào cảnh-giới Phật cũng vô-lượng 

Thanh-tịnh thập phương các cõi nước

Mỗi mỗi cõi trải vô-lượng kiếp.

Chúng-sanh phiền-não làm loạn đục

Phân biệt ưa thích chẳng phải một

Tùy tâm tạo nghiệp bất-tư-nghì 

Tất cả sát-hải đầy thành lập.

Phật tử sát-hải tạng trang-nghiêm 

Ly-cấu quang-minh báu làm thành

Ðây do rộng lớn tâm tín hải

Chỗ ở mười phương đều như vậy.

Bồ-Tát hay tu hạnh Phổ-Hiền 

Du hành pháp-giới vi-trần đạo

Trong trần đều hiện vô-lượng cõi

Rộng lớn thanh-tịnh như hư-không.

Khắp cõi hư-không hiện thần-thông 

Ðều đến đạo-tràng chỗ chư Phật 

Trên tòa liên-hoa hiện các tướng

Mỗi thân bao trùm tất cả cõi.

Một niệm hiện khắp nơi tam-thế

Tất cả sát-hải đều thành lập

Phật dùng phương-tiện đều vào trong

Là Phật Tỳ-Lô chỗ nghiêm-tịnh.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! mỗi mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần-số chỗ nương trụ. Hoặc nương tất cả trang-nghiêm mà trụ. Hoặc nương hư-không mà trụ. Hoặc nương bửu-quang-minh mà trụ. Hoặc nương bửu-sắc quang-minh mà trụ. Hoặc nương thinh-âm chư Phật mà trụ. Hoặc nương Kim-Cang hình đại-lực a-tu-la chúng-sanh như huyễn mà trụ. Hoặc nương thân các Thế-Chủ mà trụ. Hoặc nương thân chư Bồ-Tát mà trụ. Hoặc nương tất cả biển trang-nghiêm sai khác hạnh-nguyện Phổ-Hiền mà trụ.

Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có thế-giới vi-trần-số chỗ nương trụ như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng : 

Khắp cả mười phương cõi hư-không 

Chỗ có tất cả những quốc-độ 

Như-Lai thần-lực thường gia-trì

Khắp nơi hiện tiền đều thấy được.

Hoặc có các thứ những quốc-độ 

Ðều do ly-cấu-bửu làm thành

Ma-ni thanh-tịnh rất tốt xinh

Quang-minh sáng rỡ khắp hiển hiện.

Hoặc có cõi nước sáng thanh-tịnh 

Nương hư-không giới mà an-trụ 

Hoặc ở trong biển ma-ni bửu

Lại có an-trụ tạng quang-minh.

Như-Lai ở trong chúng hội này

Diễn thuyết pháp-luân đều xảo diệu

Cảnh-giới chư Phật rộng vô-biên 

Chúng-sanh được thấy lòng hoan hỷ.

Có cõi nghiêm-sức bằng ma-ni

Hình như đèn sáng giăng cùng khắp

Lửa thơm mây sáng màu chói rực

Lưới báu sáng chói dùng phủ che.

Hoặc có quốc-độ không ngằn mé

An-trụ liên-hoa biển lớn sâu

Rộng rãi thanh-tịnh khác thế-gian 

Chư Phật diệu-thiện trang-nghiêm đó.

Hoặc có quốc-độ theo luân chuyển

Do Phật oai-thần được an-trụ 

Ðại-chúng Bồ-Tát đều ở trong

Thường thấy vô-lượng báu rộng lớn.

Có cõi nước ở tay kim-cang

Hoặc cõi nước ở thân Thiên-Chúa

Tỳ-Lô-Gía-Na đấng vô-thượng

Thường ở cõi này chuyển pháp-luân.

Hoặc nương cây báu trụ bằng thẳng

Trong mây sáng thơm cũng như vậy

Có cõi nương trong những biển lớn

Hoặc trụ kim-cang rất bền chắc.

Có cõi nương-trụ kim-cang tràng

Có cõi trụ trong biển Hoa-Tạng

Thần biến rộng lớn khắp các nơi

Tỳ-Lô-Giá-Na Phật hay hiện.

Hoặc dài hoặc vắn vô-lượng thứ

Tướng đó xoay vần cũng chẳng đồng

Hoa-tạng trang-nghiêm khác thế-gian 

Tu hành thanh-tịnh mới thấy được.

Các cõi như vậy đều sai khác

Tất cả đều nương nguyện-hải trụ

Hoặc có cõi thường ở hư-không 

Chư Phật như mây đều đầy khắp.

Có ở hư-không lưới che trùm

Hoặc lúc hiện ra hoặc không hiện

Hoặc có cõi nước rất thanh-tịnh 

Trụ trong bửu-quan của Bồ-Tát.

Thập phương chư Phật thần-thông lớn

Tất cả đều hiện thấy trong đây

Chư Phật thinh âm đều cùng khắp

Ðây do nghiệp-lực mà hóa hiện.

Hoặc có cõi nước khắp pháp-giới 

Ly-cấu thanh-tịnh tùng tâm khởi

Như-ảnh như-huyễn rộng vô-biên 

Như lưới thiên-đế đều sai khác.

Hoặc hiện các thứ tạng trang-nghiêm 

Hoặc ở hư-không mà kiến-lập

Nghiệp-chơn cảnh-giới chẳng nghĩ bàn

Phật-lực hiển-thị đều khiến thấy.

Trong mỗi cõi nước số vi-trần 

Niệm niệm thị hiện những Phật-độ

Số đều vô-lượng khắp chúng-sanh 

Phổ-Hiền chỗ làm thường như vậy.

Vì muốn thành-thục các chúng-sanh 

Trong đây tu hành trải kiếp-hải

Thần-thông rộng lớn hiện khắp nơi

Trong các pháp-giới đều cùng khắp.

Pháp-giới quốc-độ mỗi vi-trần 

Những cõi nước lớn ở trong đó

Phật-vân bình-đẳng đều giăng che

Tất cả mọi nơi đều đầy đủ.

Lực dụng tự-tại trong mỗi trần

Tất cả vi-trần cũng như vậy

Chư Phật Bồ-Tát đại thần-thông 

Tỳ-Lô-Giá-Na đều hay hiện.

Tất cả quốc-độ rộng vô-biên 

Như ảnh, như huyễn như dương-diệm

Mười phương chẳng thấy từ đâu sanh

Cũng không có chỗ đi và đến.

Diệt hoại sanh thành xoay vần mãi

Trong cõi hư-không chẳng tạm dừng

Tất cả đều do nguyện thanh-tịnh 

Cũng do nghiệp lực chỗ giữ-gìn.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn, hoặc vuông, hoặc chẳng phải tròn vuông, hoặc hình như nước xoáy, hoặc hình như núi, hoặc hình như cây, hình như bông, hoặc hình như cung điện, như hình chúng-sanh, như hình Phật, có thế-giới vi-trần-số hình sai khác như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương, rồi nói kệ rằng : 

Vô-lượng quốc-độ sai khác nhau

Vô-lượng trang-nghiêm vô-lượng trụ

Hình trạng sai khác khắp mười phương 

Các ngài đều nên đồng quan-sát.

Hình kia hoặc tròn hoặc vuông vức

Hoặc có ba góc và tám cạnh

Hình châu ma-ni hình liên-hoa

Tất cả đều do nghiệp mà khác.

Có cõi thanh-tịnh sáng trang-nghiêm 

Vàng ròng xen lẫn nhiều tốt đẹp

Cửa nẻo mở trống không bít lấp

Ðây do nghiệp rộng ý tinh thuần.

Sát-hải vô-biên tạng sai khác

Ví như mây bủa giữa không gian

Bửu-châu trải đất trang-nghiêm tốt

Ở trong quang-minh sáng của Phật.

Tất cả quốc-độ tâm phân biệt

Quang-minh soi đến mà hiện ra 

Chư Phật ở trong những cõi ấy

Nơi nơi thị-hiện thần-thông-lực.

Có cõi tạp-nhiễm hoặc thanh-tịnh 

Chịu khổ hưởng vui đều sai khác

Ðây do biển nghiệp chẳng nghĩ bàn

Các pháp lưu-chuyển thường như vậy.

Trong một chân lông vô-lượng cõi

Như số-vi-trần mà an-trụ 

Mỗi cõi đều có đấng Thế-Tôn 

Ở trong chúng-hội tuyên diệu pháp.

Trong mỗi vi-trần cõi lớn nhỏ

Nhiều loại sai khác số vi-trần 

Bằng phẳng cao thấp đều chẳng đồng

Phật đều qua đến mà thuyết pháp.

Tất cả vi-trần hiện quốc-độ 

Ðều là bổn nguyện thần-thông-lực

Tùy lòng ưa thích sai khác nhau

Trong khoảng hư-không đều làm được.

Tất cả quốc-độ những vi-trần 

Trong mỗi vi-trần Phật đều nhập

Khắp vì chúng-sanh hiện thần-thông

Tỳ-Lô-Giá-Na pháp như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có các loại thể. Hoặc dùng tất cả bửu trang-nghiêm làm thể. Hoặc dùng một bửu-trang-nghiêm làm thể. Hoặc dùng tất cả bửu quang-minh làm thể. Hoặc dùng các thứ sắc quang-minh làm thể. Hoặc dùng tất cả quang-minh trang-nghiêm làm thể. Hoặc dùng kim-cang làm thể. Hoặc dùng Phật-lực nhiếp-trì làm thể. Hoặc dùng tướng diệu-bửu làm thể. Hoặc dùng Phật biến-hóa làm thể. Hoặc dùng nhựt ma-ni làm thể. Hoặc dùng cực-vi-trần bửu làm thể. Hoặc dùng tất cả bửu-diệm làm thể. Hoặc dùng các thứ hương làm thể. Hoặc dùng bửu-hoa-quan làm thể. Hoặc dùng bửu ảnh-ượng làm thể. Hoặc dùng trang-nghiêm thị-hiện làm thể. Hoặc dùng nhứt âm thị-hiện cảnh-giới làm thể. Hoặc dùng bửu hình Bồ-Tát làm thể. Hoặc dùng bửu-hoa-nhụy làm thể. Hoặc dùng ngôn-âm của Phật làm thể. Có thế-giới vi-trần số thể như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng : 

Hoặc có những quốc-độ 

Diệu-bửu hiệp lại thành

Bền chắc không hư-hoại

Ðều ở bửu-liên-hoa.

Hoặc là bửu-quang-minh 

Xuất-sanh chẳng biết được

Tất cả quang trang-nghiêm 

Nương hư-không mà ở.

Hoặc tịnh-quang làm thể

Lại nương quang-minh ở

Mây sáng làm trang-nghiêm 

Chỗ Bồ-Tát đi đến.

Hoặc có những quốc-độ 

Từ nơi nguyện-lực sanh

An-trụ như ảnh tượng

Ðem nói chẳng thể được.

Hoặc ma-ni hiệp-thành

Chói sáng như mặt trời

Bảo châu dùng trang-nghiêm 

Bồ-Tát đều đầy khắp.

Bửu-diệm thành quốc-độ 

Mây sáng trùm trên đó

Bửu-quang rất xinh đẹp

Ðều do nghiệp cảm nên.

Hoặc từ tướng tốt sanh

Các tướng trang-nghiêm đẹp

Như mão tốt đội đầu

Ðây do Phật hóa hiện.

Hoặc từ tâm niệm sanh

Tùy tâm chỗ hiểu biết 

Như huyễn không chỗ nơi

Tất cả là phân biệt.

Hoặc do Phật quang-minh 

Ma-ni-quang làm thể

Chư Phật hiện trong đó

Ðều thị-hiện thần-thông.

Hoặc Phổ-Hiền Bồ-Tát 

Hóa hiện các quốc-độ 

Dùng nguyện-lực trang-nghiêm 

Tất cả đều tốt đẹp.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! nên biết thế-giới-hải có nhiều loại trang-nghiêm. Hoặc dùng trong những đồ trang-nghiêm hiện ra mây đẹp nhứt để trang-nghiêm. Hoặc dùng thuyết-minh công-đức của chư Bồ-Tát để trang-nghiêm. Hoặc dùng thuyết minh nghiệp báo của tất cả chúng-sanh để trang-nghiêm. Hoặc dùng thị-hiện nguyện-lực của chư Bồ-Tát để trang-nghiêm. Hoặc dùng biểu-thị ảnh-tượng của tam thế chư Phật để trang-nghiêm. Hoặc dùng trong một khoảng một niệm thị-hiện cảnh-giới thần-thông trải vô-biên kiếp để trang-nghiêm. Hoặc dùng xuất hiện thân của chư Phật để trang-nghiêm. Hoặc dùng xuất hiện tất cả mây hương báu để trang-nghiêm. Hoặc dùng thị-hiện những vật trân diệu quang-minh chiếu sáng trong tất cả đạo-tràng để trang-nghiêm. Hoặc dùng thị-hiện tất cả Phổ-Hiền hạnh nguyện để trang-nghiêm.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng : 

Sát-hải rộng lớn vô-lượng-biên

Thành nên đều do nghiệp thanh-tịnh 

Nhiều thứ trang-nghiêm nhiều nơi ở

Tất cả mười phương đều đầy khắp.

Vô-biên sắc tướng mây báu sáng 

Rộng lớn trang-nghiêm chẳng phải một

Mười phương sát-hải thường xuất hiện

Khắp dùng diệu-âm mà thuyết pháp.

Bồ-Tát vô-biên biển công-đức 

Những nguyện rộng lớn để trang-nghiêm 

Khắp cõi đồng thời vang diệu-âm

Chấn động mười phương các quốc-độ.

Chúng-sanh biển nghiệp rộng vô-lượng 

Tùy kia cảm báo đều chẳng đồng

Trong tất cả chỗ được trang-nghiêm 

Ðều do chư Phật hay diễn thuyết.

Tất cả Như-Lai trong ba thuở

Thần-thông hiện khắp thế-giới-hải

Trong mỗi sự có tất cả Phật 

Các ngài xem sự trang-nghiêm đó.

Quá-khứ, vị-lai, kiếp hiện-tại

Mười phương tất cả những quốc-độ 

Những sự trang-nghiêm ở nơi kia

Ðều thấy ở trong một cõi nước.

vô-lượng Phật trong tất cả sự

Số đồng chúng-sanh khắp thế-gian 

Vì khiến điều-phục hiện thần-thông 

Dùng đây trang-nghiêm thế-giới-hải.

Tất cả trang-nghiêm tuôn mây đẹp

Nhiều thứ mây hoa mây hương sáng

Mây báu ma-ni thường xuất hiện

Sát-hải dùng đây để trang-nghiêm.

Mười phương những nơi Phật thành-đạo

Các thứ trang-nghiêm đều đầy đủ

Phóng-quang chiếu xa như mây sáng

Trong thế-giới-hải đều khiến thấy.

Phổ-Hiền hạnh-nguyện chư Bồ-Tát 

Vô-biên kiếp hải siêng tu tập 

Vô-biên quốc-độ đều trang-nghiêm 

Trong tất cả chỗ đều hiển hiện.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số môn phương-tiện thanh-tịnh. Chính là do thiện-căn của chư Bồ-Tát gần gũi thiện-trí-thức. Do thêm lớn những công-đức khắp pháp-giới. Do tu-tập những thắng-giải rộng lớn. Do quan-sát cảnh-giới của tất cả Bồ-Tát mà an-trụ. Do tu-tập những môn ba-la-mật đều viên-mãn. Do quán-sát những địa-vị của chư Bồ-Tát mà nhập trụ. Do xuất sanh tất cả thệ nguyện thanh-tịnh. Do tu-tập những hạnh xuất-yếu. Do nhập tất cả biển trang-nghiêm. Do thành-tựu sức phương-tiện thanh-tịnh.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng : 

Tất cả cõi nước những trang-nghiêm 

Do nguyện lực phương-tiện sanh ra

Tất cả quốc-độ thường chói sáng

Vô-lượng nghiệp thanh-tịnh hiện thành.

Bồ-Tát lâu xa gần trí-thức

Ðồng tu nghiệp lành đều thanh-tịnh

Từ-bi rộng lớn khắp chúng-sanh 

Dùng dây trang-nghiêm các quốc-độ.

Tất cả pháp-môn những tam-muội 

Thiền-định giải-thoát môn phương-tiện 

Nơi chỗ chư Phật đều tu hành

Do đây sanh ra những quốc-độ.

Phát sanh vô-lượng trí thắng-giải

Hiểu được Như-Lai đồng không khác

Phương-tiện nhẫn nhục đã tu hành

Nên nghiêm-tịnh được vô-biên cõi.

Vì lợi chúng-sanh tu thắng hạnh

Phước-đức rộng lớn thường tăng-trưởng

Ví như mây bủa khắp hư-không 

Tất cả quốc-độ đều thành-tựu.

Môn ba-la-mật nhiều vô-lượng 

Ðều đã tu hành khiến đầy đủ

Nguyện ba-la-mật vô-cùng tận

Quốc-độ thanh-tịnh từ đây sanh.

Những pháp vô-thượng đều tu hành 

Sanh ra vô-biên hạnh xuất-yếu

Nhiều môn phương-tiện độ chúng-sanh 

Như vậy trang-nghiêm các quốc-độ.

Tu-tập trang-nghiêm môn phương-tiện 

Chứng Phật công-đức biển pháp-môn 

Khiến khắp chúng-sanh cạn nguồn khổ

Cõi nước rộng lớn đều thành tựu.

Nguyện lực rộng lớn không gì sánh

Khiến khắp chúng-sanh gieo thiện căn

Cúng-dường tất cả chư Như-Lai 

Vô-biên quốc-độ đều thanh-tịnh.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết mỗi mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số Phật xuất hiện sai khác : hoặc hiện thân nhỏ, hoặc hiện thân lớn, hoặc hiện đoản-thọ, hoặc hiện trường-thọ, hoặc chỉ nghiêm-tịnh một quốc-độ, hoặc hiện nghiêm-tịnh vô-lượng quốc-độ, hoặc chỉ hiển thị pháp nhứt-thừa, hoặc hiển thị vô-lượng thừa, hoặc hiện điều-phục thiểu số chúng-sanh, hoặc hiện điều-phục vô-biên chúng-sanh, có vi-trần số sai khác như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này thừa oai-lực của Phật quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng : 

Chư Phật có các môn phương-tiện 

Xuất hiện tất cả những quốc-độ 

Ðều tùy sở thích của chúng-sanh 

Ðây là Như-Lai quyền-lực khéo.

Pháp-thân chư Phật bất-tư-nghì 

Không sắc, không hình, không ảnh tượng

Vì chúng-sanh hiện tướng sai khác

Theo lòng họ ưa khiến họ thấy.

Hoặc vì chúng-sanh hiện đoản-thọ

Hoặc hiện trường-thọ vô-lượng kiếp

Pháp thân mười phương khắp hiện-tiền

Trong thế-gian tùy nghi xuất hiện.

Hoặc hiện nghiêm-tịnh bất-tư-nghì 

Mười phương vô-biên các quốc-độ 

Hoặc chỉ nghiêm-tịnh một cõi nước

Nơi một thị-hiện đủ không sót.

Hoặc tùy sở thích của chúng-sanh 

Thị-hiện vô-lượng vô-biên thừa 

Hoặc chỉ tuyên-thuyết pháp nhứt thừa

Trong một thừa hiện vô-lượng pháp.

Hoặc hiện tự nhiên thành chánh-giác

Ðộ thiểu số người vào chánh-pháp

Hoặc lại thị-hiện trong một niệm

Khai ngộ quần-sanh vô-lượng số.

Hoặc nơi chưn lông tuôn mây sáng

Thị-hiện vô-lượng vô-biên Phật 

Tất cả thế-gian đều hiện thấy

Các môn phương-tiện độ quần-sanh.

Hoặc hiện thinh âm khắp mọi nơi

Tùy lòng họ ưa mà thuyết pháp

Vô-lượng vô-biên những đại kiếp

Ðiều-phục vô-lượng các chúng-sanh.

Phật có vô-lượng cõi trang-nghiêm 

Chúng-hội thanh-tịnh ngồi nghiêm chỉnh

Phật như vầng mây che trong đó

Thập phương quốc-độ đều đầy khắp.

Chư Phật phương-tiện bất-tư-nghì 

Tùy tâm chúng-sanh hiện ra trước

Ngự trong các cõi rất trang-nghiêm 

Tất cả quốc-độ đều cùng khắp.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần-số kiếp trụ, hoặc có a-tăng-kỳ kiếp trụ, hoặc có vô-lượng kiếp-trụ, hoặc có vô-biên kiếp-trụ, hoặc có vô-đẳng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-sổ-kiếp trụ, hoặc có bất-khả-xung-kiếp trụ, hoặc có bất-khả-tư kiếp trụ, hoặc có bất-khả-lượng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp trụ, có vi-trần số kiếp trụ như vậy. 

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng : 

Trong thế-giới-hải nhiều kiếp trụ

Phương-tiện rộng lớn để trang-nghiêm 

Mười phương cõi nước đều xem thấy

Số lượng sai khác đều rành rẽ.

Tôi thấy mười phương thế-giới-hải

Kiếp số vô-lượng đồng chúng-sanh 

Hoặc dài hoặc vắn hoặc vô-biên 

Dùng Phật thinh âm nay diễn nói.

Hoặc thấy mười phương những quốc-độ 

Hoặc trụ quốc-độ vi-trần kiếp

Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số

Bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng.

Hoặc có thuần tịnh hoặc thuần nhiễm

Hoặc lại nhiễm tịnh chung lộn lạo

Nguyện-lực an lập nhiều sai khác

Trong tâm chúng-sanh mà an-trụ.

Thuở xưa tu hành vi-trần kiếp

Ðược thế-giới-hải thanh-tịnh lớn

Cảnh-giới chư Phật đều trang-nghiêm 

Trụ mãi vô-biên kiếp rộng lớn

Dùng bửu quang-minh để đặt tên

Hoặc tên Ðẳng-Âm-Diệm-Nhãn-Tạng

Tên Ly-Quang-Minh và Hiền-Kiếp

Kiếp thanh-tịnh này nhiếp tất cả.

Có kiếp thanh-tịnh một Phật hiện

Hoặc trong một kiếp nhiều Phật hiện

Vô-tận phương-tiện đại-nguyện-lực

Vào trong tất cả thời gian kiếp.

Hoặc vô-lượng kiếp và một kiếp

Hoặc lại một kiếp vào nhiều kiếp

Tất cả kiếp hải phương-tiện môn

Thập phương quốc-độ đều hiện rõ.

Hoặc tất cả kiếp sự trang-nghiêm 

Ở trong một kiếp đều hiện thấy

Hoặc sự trang-nghiêm trong một kiếp

Vào khắp tất cả vô-biên kiếp.

Trước từ một niệm sau thành kiếp

Sanh ra đều do tâm chúng-sanh 

Tất cả quốc-độ kiếp vô-biên 

Dùng một phương-tiện đều thanh-tịnh.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số kiếp chuyển biến sai khác. Như là vì pháp như vậy nên thế-giới-hải có vô-lượng kiếp thành, kiếp hoại chuyển biến. Vì chúng-sanh nhiễm-ô ở nên thế-giới-hải thành kiếp nhiễm-ô chuyển biến. Vì chúng-sanh tu phước rộng lớn ở, nên thế-giới-hải thành kiếp nhiễm-tịnh chuyển biến. Vì tín-giải Bồ-Tát ở, nên thế-giới-hải thành-kiếp nhiễm-tịnh chuyển-biến. Vì vô-lượng chúng-sanh phát bồ-đề-tâm nên thế-giới-hải thuần kiếp thanh-tịnh chuyển biến. Vì thập phương tất cả chư Bồ-Tát vân tập nên thế-giới-hải vô-lượng kiếp đại trang-nghiêm chuyển biến. Vì chư Phật Thế-Tôn nhập Niết-bàn nên thế-giới-hải kiếp trang-nghiêm diệt chuyển biến. Vì chư Phật xuất hiện ra đời nên tất cả thế-giới-hải kiếp rộng lớn trang-nghiêm thanh-tịnh chuyển biến. Vì Như-Lai thần-thông biến hóa nên thế-giới-hải kiếp thanh-tịnh chuyển biến. Có vi-trần số kiếp chuyển biến như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười-phương mà nói kệ rằng : 

Tất cả những quốc-độ 

Ðều tùy nghiệp-lực sanh

Các ngài nên quan-sát 

Tướng chuyển biến như vậy.

Những chúng-sanh nhiễm ô

Nghiệp phiền-não đáng sợ

Tâm họ khiến quốc-độ 

Tất cả thành nhiễm ô.

Nếu có tâm thanh-tịnh 

Tu những hạnh phước-đức 

Tâm họ khiến quốc-độ 

Tạp nhiễm và thanh-tịnh.

Chư Bồ-Tát tín-giải

Sanh vào trong kiếp kia

Tùy tâm Bồ-Tát này

Quốc-độ đủ tịnh nhiễm.

Vô-lượng số chúng-sanh 

Ðều phát bồ-đề tâm 

Tâm họ khiến quốc-độ 

Trụ kiếp thường thanh-tịnh.

Vô-lượng ức Bồ-Tát 

Qua đến mười phương cõi

Trang-nghiêm không có khác

Trong kiếp thấy sai khác.

Trong mỗi mỗi vi-trần 

Bồ-Tát đồng vân tập

Quốc-độ đều thanh-tịnh.

Thế-Tôn nhập Niết-bàn 

Cõi đó dứt trang-nghiêm 

Chúng-sanh không pháp-khí

Thế-giới thành tạp-nhiễm.

Nếu có Phật ra đời

Cõi nước đều tốt đẹp

Tùy theo tâm thanh-tịnh 

Ðầy đủ sự trang-nghiêm.

Thần-thông của chư Phật 

Thị-hiện bất-tư-nghì 

Lúc đó những quốc-độ 

Tất cả đều thanh-tịnh.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số sai biệt. Như là trong mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số thế-giới vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải chư Phật xuất hiện oai-đức thần-lực vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải tất cả đạo-tràng khắp thập phương pháp-giới vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải quang-minh của chư Phật khắp pháp-giới vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải chúng hội đạo-tràng của chư Phật vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải chư Phật biến hóa danh-hiệu vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải thinh-âm của chư Phật khắp thế-giới-hải vô-biên kiếp trụ vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải pháp-luân phương-tiện vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải tất cả thế-giới-hải vào khắp một vi-trần vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải mỗi vi-trần cảnh-giới rộng lớn của tất cả tam thế chư Phật đều hiện trong đó vô-sai-biệt. Có vi-trần số vô-sai-biệt như vậy.

Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng : 

Trong một vi-trần nhiều sát-hải

Chỗ nơi riêng khác đều nghiêm-tịnh

Vô-lượng như vậy và một cõi

Mỗi mỗi chia khác không xen tạp.

Trong mỗi vi-trần vô-lượng Phật 

Tùy tâm chúng-sanh khắp hiện-tiền

Tất cả quốc-độ đều cùng khắp

Phương-tiện như vậy vô-sai-biệt.

Trong mỗi vi-trần những thọ vương

Nhiều thứ trang-nghiêm đều thòng rủ

Thập phương quốc-độ đều đồng hiện

Tất cả như vậy vô-sai-biệt.

Trong mỗi trần có vị-trần chúng

Cùng nhau bao quanh đức Thế-Tôn 

Siêu-việt tất cả khắp thế-gian 

Cũng chẳng chật hẹp tạp loạn nhau.

Trong mỗi trần có vô-lượng quang

Chiếu khắp mười phương các cõi nước

Ðều hiện chư Phật hạnh bồ-đề 

Tất cả sát-độ vô-sai-biệt.

Trong mỗi trần có vô-lượng thân

Biến hóa như mây đều cùng khắp

Phật dùng thần-thông độ chúng-sanh 

Thập phương quốc-độ vô-sai-biệt.

Trong mỗi trần diễn nói các pháp

Pháp đó thanh-tịnh như luân chuyển

Các môn phương-tiện đều tự-tại 

Tất cả diễn thuyết vô-sai-biệt.

Một trần diễn khắp tiếng chư Phật 

Ðầy khắp pháp-khí các chúng-sanh 

Trụ khắp sát-hải vô-biên kiếp

Thinh-âm như vậy cũng không khác.

Sát-hải vô-lượng trang-nghiêm đẹp

Trong mỗi vi-trần tam-thế Phật 

Tùy chỗ sở-thích đều khiến thấy

Thể-tánh không đến cũng không đi

Do nơi nguyện-lực khắp thế-gian.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12512)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10408)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12363)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11671)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28839)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12068)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13025)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11467)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12390)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17463)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53101)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35507)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21420)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10692)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19272)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12431)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26063)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13335)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14404)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16103)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13743)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16861)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17605)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13149)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12550)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11628)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11635)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14523)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20499)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19006)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19612)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18681)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12205)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12341)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13881)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15052)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15053)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14009)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15536)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11415)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17212)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14995)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20234)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14636)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13875)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11734)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15079)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13010)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22908)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14573)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11683)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13185)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16897)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18363)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11956)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11517)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15868)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12900)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18934)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18445)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant