Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

15. Phẩm Thập-trụ

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 20460)
15. Phẩm Thập-trụ

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM THẬP TRỤ
THỨ MƯỜI LĂM

Lúc bấy giờ Pháp-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, nhập Bồ-Tát vô-lượng phương tiện tam-muội. Do sức tam-muội, ngoài ngàn phật-sát vi-trần-số thế-giới ở mười-phương, có ngàn phật-sát vi-trần-số Phật đều đồng hiệu là Pháp-Huệ và đồng hiện đến bảo Pháp-Huệ Bồ-Tát rằng :

'Lành thay ! lành thay ! Thiện-nam-tử ! Ông hay nhập Bồ-Tát Vô-Lượng phương-tiện tam-muội này.

Thiện-nam-tử ! Trong mười-phương, ở mỗi phương đều có ngàn phật-sát vi-trần-số chư Phật đều dùng thần-lực đồng gia-hộ ông.

Lại nguyện-lực và thần-lực của đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai đây, cùng năng-lực thiện-căn của ông đã tu, nhập tam-muội này, khiến ông thuyết pháp, vì để tăng-trưởng phật-trí, vì thâm nhập pháp-giới, vì khéo rõ chúng-sanh-giới, vì sở nhập vô-ngại, vì sở hành vô-chướng, vì được vô-đẳng phương-tiện, vì nhập nhứt-thiết-trí-tánh, vì giác tất cả pháp, vì biết tất cả căn, vì hay thọ-trì diễn-thuyết tất cả pháp : chính là phát khởi mười bực trụ của Bồ-Tát.

Thiện-nam-tử ! Ông nên thừa thần-lực của Phật mà diễn-thuyết pháp thập trụ ấy !'

Lúc đó chư Phật liền ban cho Pháp-Huệ Bồ-Tát trí vô-ngại, trí vô-trước, trí vô-đoạn, trí vô-si, trí vô-dị, trí vô-thất, trí vô-lượng, trí vô-thắng, trí vô-giải-đãi, trí vô-đoạt. Tại sao vậy ? Vì năng-lực của tam-muội này pháp-nhĩ như vậy.

Chư Phật đều đưa tay hữu xoa đảnh của Pháp-Huệ Bồ-Tát.

Pháp-Huệ Bồ-Tát liền xuất định nói với chư Bồ-Tát rằng :

'Chư Phật-tử ! Trụ-xứ của Bồ-Tát rộng lớn đồng với hư-không-giới.

Phật-tử ! Bồ-Tát trụ nơi nhà tam-thế chư Phật.

Nay tôi sẽ nói về chỗ trụ của Bồ-Tát ấy.

Chư Phật-tử ! Chỗ trụ của Bồ-Tát có mười bực mà tam-thế chư Phật đã nói, sẽ nói và hiện đương nói.

Ðây là mười bực trụ :

Sơ-phát-tâm-trụ, Trị-địa-trụ, Tu-hành-trụ, Sanh-quý-trụ, Cụ-túc phương-tiện-trụ, Chánh-tâm-trụ, Bất-thối-trụ, Ðồng-chơn-trụ, Pháp-vương-tử-trụ, Quán-đảnh-trụ.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát phát-tâm-trụ ?

Vị Bồ-Tát này thấy Phật hình dung đoan-nghiêm xinh đẹp có oai-lực lớn, hoặc thấy thần-túc, hoặc nghe thọ-ký, hoặc nghe giảng dạy, hoặc thấy chúng-sanh chịu những sự quá khổ, hoặc nghe phật-pháp rộng lớn của Như-Lai mà phát bồ-đề-tâm, cầu nhứt-thiết-trí.

Vị Bồ-Tát này duyên mười pháp khó được mà phát tâm. Ðây là mười pháp khó được :

Trí biết rõ thị-xứ phi-xứ, trí biết rõ thiện-ác nghiệp báo, trí biết rõ căn tánh thắng-liệt, trí biết rõ các loại tri giải sai-biệt, trí biết rõ các cảnh-giới sai-biệt, trí biết rõ tất cả chí-xứ-đạo, trí biết rõ các thiền giải-thoát tam-muội, trí túc-mạng vô-ngại, trí thiên-nhãn vô-ngại, trí tam-thế lậu-tận.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp. Ðây là mười pháp :

Siêng cúng-dường Phật, thích ở sanh-tử, chủ-trương dìu dắt thế-gian khiến trừ ác nghiệp, thường đem pháp thắng-diệu dạy bảo, ca ngợI pháp vô-thượng, học công-đức của Phật, sanh ở trước Phật luôn được nhiếp thọ, phương-tiện diễn nói tam-muội tịch-tịnh, ngợi khen xa lìa sanh-tử luân-hồi, làm chỗ quy-y cho chúng-sanh đang bị khổ.

Vì sao phải khuyên học mười pháp này. Vì muốn vị Bồ-Tát này, ở trong phật-pháp, tâm thêm rộng lớn, có nghe được pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là bực Bồ-Tát trị-địa-trụ ?

Vị Bồ-Tát này đối với chúng-sanh phát mười thứ tâm :

Tâm-lợi-ích, tâm đại-bi, tâm an-lạc, tâm an-trụ, tâm lân-mẫn, tâm nhiếp-thọ, tâm thủ-hộ, tâm đồng với mình, tâm là thầy, tâm làm đạo-sư.

Chư Phật-tử ! nên khuyên vị Bồ-Tát này học mười thứ pháp :

Tụng tập học rộng, rảnh rang tịch-tịnh, gần thiện tri-thức, nói lời hòa vui, nói tất biết-thời, lòng không khiếp sợ, rõ thấu các nghĩa, tu hành đúng pháp, xa lìa ngu-mê, an-trụ bất-động.

Do học mười pháp trên đây, vị Bồ-Tát này đối với chúng-sanh, thêm lớn đại-bi, có được nghe pháp liền tự hiểu chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát tự-tại hành-trụ ?

Vị Bồ-Tát này dùng mười hạnh để quan-sát tất cả pháp :

Quán tất cả pháp vô-thường, tất cả pháp khổ, tất cả pháp không, tất cả pháp vô-ngã, tất cả pháp vô-tác, tất cả pháp vô-vị, tất cả pháp bất-như-danh, tất cả pháp vô-xứ-sở, tất cả pháp rời phân-biệt, tất cả pháp không kiên thiệt.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :

Quan-sát chúng-sanh giới, pháp-giới, thế-giới, quan-sát địa-giới, thủy-giới, hỏa-giới, phong-giới, quan-sát dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới. Vì muốn vị Bồ-Tát này được trí huệ sáng tỏ, có được nghe pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát sanh-quý-trụ ?

Vị Bồ-Tát này từ thánh-giáo sanh, thành-tựu mười pháp :

Trọn chẳng thối chuyển nơi Phật-đạo, sanh lòng tin sâu thanh-tịnh, khéo quan-sát pháp, rõ biết chúng-sanh, quốc-độ, thế-giới, nghiệp-hạnh, quả-báo, sanh-tử, niết-bàn.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :

Rõ biết tất cả phật-pháp thời quá-khứ, thời vị-lai, thời hiện-tại; tu tập tất cả phật-pháp thời quá-khứ, vị-lai, hiện-tại; viên-mãn tất cả phật-pháp quá-khứ, vị-lai, hiện tại; biết rõ tất cả Phật bình-đẳng. Ðây là vì muốn cho vị Bồ-Tát này được thăng tiến, nơi trong tam-thế tâm được bình-đẳng, có được nghe pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát cụ-túc phương-tiện-trụ ?

Vị Bồ-Tát này trọn đủ mười pháp :

Căn lành tu tập đều vì cứu hộ tất cả chúng-sanh, lợi ích tất cả chúng-sanh, an-lạc tất cả chúng-sanh, ai-mẫn tất cả chúng-sanh, độ-thoát tất cả chúng-sanh, khiến tất cả chúng-sanh lìa những tai nạn, khiến tất cả chúng-sanh thoát khổ sanh-tử, khiến tất cả chúng-sanh phát-sanh tịnh-tín, khiến tất cả chúng-sanh đều được điều-phục, khiến tất cả chúng-sanh đều chứng niết-bàn.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :

Biết chúng-sanh vô-biên, vô-lượng, vô-số, biết chúng-sanh bất-tư-nghị, vô-lượng-sắc, bất-khả-lượng, biết chúng-sanh không, vô-sở-tác, vô-sở-hữu, vô-tự-tánh.

Vì muốn vị Bồ-Tát này, tâm lại càng tăng-thắng hơn không bị nhiễm trước, có được nghe pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát chánh-tâm-trụ ?

Vị Bồ-Tát này nghe mười pháp tâm định chẳng động :

Nghe khen Phật hay chê Phật, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe khen pháp hay chê pháp, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe khen Bồ-Tát hay chê Bồ-Tát, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe khen hay chê công-hạnh của vị Bồ-Tát, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói chúng-sanh hữu-lượng hay vô-lượng, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói chúng-sanh hữu-cấu hay vô-cấu, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói chúng-sanh dễ độ hay khó độ, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói pháp-giới hữu-lượng hay vô-lượng, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói pháp-giới có thành có hoại, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói phật-pháp hoặc có hoặc không, đối với phật-pháp tâm định chẳng động.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :

Tất cả pháp vô-tướng, tất cả pháp vô-thể, tất cả pháp chẳng thể tự-tại, tất cả pháp vô-sở-hữu, tất cả pháp không chơn-thiệt, tất cả pháp không, tất cả pháp vô-tánh, tất cả pháp như huyễn, tất cả pháp như mộng, tất cả pháp vô-phân-biệt.

Vì muốn vị Bồ-Tát này tâm lại càng thêm tăng-tiến được chẳng thối chuyển vô-sanh-pháp-nhãn. Có được nghe pháp liền tự hiểu chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát bất thối-trụ ?

Vị Bồ-Tát này nghe mười pháp kiên-cố bất-thối :

Nghe có Phật hay không có Phật, nghe có pháp hay không pháp, nghe có Bồ-Tát hay không Bồ-Tát, nghe có Bồ-Tát hạnh hay không Bồ-Tát hạnh, nghe có Bồ-Tát tu hành được xuất-ly hay chẳng xuất-ly, nghe quá-khứ có Phật hay không Phật, nghe vị-lai có Phật hay không Phật, nghe hiện-tại có Phật hay không Phật, nghe Phật trí hữu-tận hay vô-tận, nghe tam-thế là một tướng hay chẳng phải một tướng, đối với trong phật-pháp tâm đều chẳng thối chuyển cả.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp quảng đại :

Nói một chính là nhiều, nói nhiều chính là một; văn tùy nơi nghĩa, nghĩa tùy nơi văn, chẳng có chính là có, có chính là chẳng phải có, vô-tướng chính là tướng, tướng chính là vô-tướng, vô-tánh chính là tánh, tánh chính là vô-tánh.

Vì muốn khiến vị Bồ-Tát này tăng-tiến, nơi tất cả pháp khéo hay xuất-ly, có được nghe pháp liền tự hiểu chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát đồng-chơn-trụ ?

Vị Bồ-Tát này trụ mười hạnh nghiệp :

Thân-hạnh không lỗi, ngữ-hạnh không lỗi, ý-hạnh không lỗi, tùy ý thọ sanh, biết chúng-sanh các thứ dục, biết chúng-sanh các thứ tri-giải, biết chúng-sanh các thứ cảnh-giới, biết chúng-sanh các thứ nghiệp, biết thế-giới thành hoại, thần-túc tự-tại vô-ngại.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :

Biết tất cả phật-sát, động tất cả phật-sát, trì tất cả phật-sát, quán tất cả phật-sát, đến tất cả phật-sát, du-hành vô-số thế-giới, lãnh-thọ vô-số phật-pháp, hiện thân biến-hóa tự-tại, nói ra tiếng quảng-đại biến mãn, trong một sát-na thừa sự cúng-dường vô-số Phật.

Vì muốn vị Bồ-Tát này tăng-tiến, hay được thiện-xảo đối với tất cả pháp, có được nghe pháp liền tự hiểu hẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát pháp-vương-tử-trụ ?

Vị Bồ-Tát này khéo biết mười pháp :

Khéo biết chúng-sanh thọ sanh, khéo biết phiền-não hiện khởi, khéo biết tập-khí tương-tục, khéo biết chỗ làm phương-tiện, khéo biết vô-lượng-pháp, khéo biết các oai-nghi, khéo biết thế-giới sai biệt, khéo biết những việc của thế-gian trước thế-gian sau, khéo biết diễn thuyết đệ-nhứt-nghĩa.

Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :

Pháp-Vương xứ thiện-xảo, Pháp-Vương xứ quỷ-độ, Pháp-Vương xứ cung-điện, Pháp-Vương xứ thu-nhập, Pháp-Vương xứ quan-sát, Pháp-Vương xứ quán-đảnh, Pháp-Vương lực-trì, Pháp-Vương vô-úy, Pháp-Vương minh-tẩm, Pháp-Vương tán thán.

Vì muốn khiến vị Bồ-Tát này tăng tiến tâm không chướng-ngại, có được nghe pháp liền tự hiểu chẳng do người khác dạy.

Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát quán-đảnh-trụ ?

Vị Bồ-Tát này được thành-tựu mười thứ trí :

Chấn-động vô-số thế-giới, chiếu diệu vô-số thế-giới trụ-trì vô-số thế-giới, qua đến vô-số thế-giới, nghiêm-tịnh vô-số thế-giới, khai-thị vô-số chúng-sanh, quan-sát vô-số chúng-sanh, biết căn-tánh của vô-số chúng-sanh, khiến vô-số chúng-sanh thu nhập, khiến vô-số chúng-sanh điều-phục.

Vị Bồ-Tát này thân và thân-nghiệp, thần-thông biến hiện, quá-khứ trí, vị-lai trí, hiện-tại trí, thành-tựu phật-độ tâm cảnh-giới, trí cảnh-giới, tất cả đều chẳng thể biết được, nhẫn đến Pháp-Vương-Tử Bồ-Tát cũng chẳng biết được.

Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười thứ trí của Như-Lai :

Tam-thế-trí, phật-pháp-trí, pháp-giới vô-ngại-trí, phật-giới vô-biên-trí, sung-mãn nhứt-thiết thế-giới-trí, phổ-chiếu nhứt-thiết thế-giới-trí, trụ-trì nhứt-thiết thế-giới-trí, tri nhứt-thiết chúng-sanh-trí, tri nhứt-thiết pháp trí tri vô-biên chư Phật trí.

Vì muốn khiến vị Bồ-Tát này tăng trưởng nhứt-thiết chủng-trí, có được nghe pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.

Lúc bấy giờ, do thần-lực của đức Phật trong mười phương, mỗi phương đều một vạn phật-sát vi-trần-số thế-giới sáu thứ chấn-động. Mưa thiên-hoa, tràng-hoa, thiên mạt-hương, thiên tạp-hương, thiên bửu-y, thiên bửu-vân, thiên trang-nghiêm cụ. Những kỹ-nhạc trời tự-nhiên hòa tấu. Phóng thiên quang-minh và âm thinh vi-diệu.

Như ở thế-giới này, thập-phương thế-giới, nơi điện Thiên-Ðế-Thích nói pháp thập-trụ và hiện thần-biến cũng như vậy cả.

Lại do thần lực của Phật, mười phương đều có một vạn phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đến nơi đây và đồng nói rằng : 'Lành thay ! Lành thay ! Này Phật-tử ! Ngài khéo nói pháp này.

Chúng tôi đồng tên Pháp-Huệ, quốc-độ đồng hiệu Pháp-Vân, Như-Lai ở các cõi đó đều hiệu Diệu-Pháp, Nơi pháp-hội của Thế-Tôn chúng tôi cũng giảng thuyết thập-trụ, câu văn nghĩa lý và chúng-hội quyến-thuộc cũng đồng như nơi đây, không có tăng giảm.

Chúng tôi thừa thần-lực của đức Phật mà đến nơi pháp-hội này để chứng-minh.

Lúc đó Pháp-Huệ Bồ-Tát, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương khắp cùng pháp-giới, rồi nói kệ rằng :

Thấy thân vi-diệu đấng Thắng-Trí

Tướng-hảo đoan-nghiêm đều đầy đủ

Tôn trọng như vậy rất khó gặp

Bồ-Tát dũng-mãnh sơ-phát-tâm.

Thấy đại thần-thông không ai bằng

Nghe lời thọ kýdạy bảo

Các loài chúng-sanh khổ vô-lượng

Do đây Bồ-Tát sơ-phág-tâm.

Nghe chư Như-Lai đấng Phổ-Thắng

Tất cả công-đức đều thành-tựu

Ví như hư-không chẳng phân biệt

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm

Tam-thế nhơn-quả gọi là xứ

Tự-tánh chúng ta là phi-xứ

Muốn đều rõ biết nghĩa chơn thật

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tất cả hữu-vi các hạnh-đạo

Mỗi mỗi đều có chỗ nơi đến

Ðều muốn rõ biết thể-tánh đó

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tất cả thế-giới các chúng-sanh

Tùy nghiệp trôi lăn không tạm dứt

Muốn được thiên-nhãn đều thấy rõ

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Trong đời quá-khứ đã từng có

Thể-tánh như vậy, tướng như vậy

Muốn đều rõ biết túc-trụ kia

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tất cả chúng-sanh những phiền-não

Tương-tục, hiện khởi, và tập-khí

Muốn đều rõ biết rốt ráo hết

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tùy những chúng-sanh chỗ an-lập

Các môn đàm luận đường ngữ ngôn

Như thế-đế đó đều muốn biết

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tất cả các pháp lìa ngôn thuyết

Tánh không tịch-diệt vốn vô-tác

Muốn đều rõ thấu chơn-nghĩa này

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn đều chấn-động mười phương cõi

Nghiên úp tất cả những đại-hải

Ðầy đủ chư Phật đại thần-thông

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn một chưn lông phóng quang-minh

Chiếu khắp mười phương vô-lượng cõi

Trong mỗi quang-minh giác tất cả

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn đem nan-tư vô-lượng cõi

Ðể trong bàn tay mà chẳng động

Rõ biết tất cả như huyễn hóa

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn dùng một lông chấm nước biển

Tất cả đại-hải đều làm cạn

Mà đều phân-biệt biết số kia

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Quá-khứ vị-lai vô-lượng kiếp

Tất cả thế-gian tướng thành hoại

Ðều muốn thấu rõ cùng biên-tế

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tam thế tất cả chư Như-Lai

Tất cả Ðộc-Giác và Thanh-Văn

Muốn biết hết cả những pháp đó

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Vô-lượng vô-biên các thế-giới

Muốn dùng một lông đều cân nổI

Như thể tướng kia đều biết rõ

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Vô-lượng vô-số Luân-Vi-sơn

Muốn khiến đều vào trong chơn lông

Lớn nhỏ của kia đều biết rõ

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn dùng một diệu-âm tịch-tịnh

Khắp ứng mười phương tùy loại diễn

Như vậy đều khiến sáng sạch rõ

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Ngôn ngữ của tất cả chúng-sanh

Một lời diễn nói đều hết cả

Ðều muốn rõ biết tự-tánh kia

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Ngôn âm thế-gian đều nói cả

Khiến họ đều hiểu chứng tịch-diệt

Muốn được như vậy diệu-thiệt-căn

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn khiến mườI phương những thế-giới

Có tướng thành hoại đều được thấy

Mà đều biết từ phận-biệt sanh

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Tất cả mười phương những thế-giới

Vô-lượng Như-Lai đều sung-mãn

Ðều muốn rõ biết Phật-pháp kia

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Các loại biến-hóa vô-lượng thân

Tất cả thế-giới vi-trần thảy

Ðều muốn rõ thấu từ tâm khởi

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Quá-khứ, vị-lai và hiện-tại

Vô-lượng vô-số chư Như-Lai

Muốn nơi một niệm đều rõ biết

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn diễn thuyết đủ một câu pháp

A-tăng-kỳ kiếp không cùng tận

Mà khiến văn nghĩa đều chẳng đồng

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Mười phương tất cả các chúng-sanh

Tùy tướng họ lưu-chuyển sanh diệt

Muốn nơi một niệm đều rõ thấu

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Muốn dùng thân, ngữ và ý-nghiệp

Ðến khắp mười phương không chướng ngại

Rõ biết tam-thế đều không-tịch

Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.

Bồ-Tát phát tâm như vậy rồi

Khiến nên qua đến mười phương cõi

Cung-kính cúng-dường chư Như-Lai

Do đây khiến được không thối chuyển.

Bồ-Tát dũng mãnh cầu Phật-đạo

Ở nơi sanh-tử chẳng mỏi-nhàm

Vì kia ca ngợi khiến thuận lành

Như vậy khiến kia không thối chuyển.

Mười phương thế-giới vô-lượng cõi

Ðều ở trong đó làm Tôn-Chủ

Vì chư Bồ-Tát nói như vậy

Do đây khiến kia không thối chuyển.

Tói-thắng, tối-thượng, tối-đệ-nhứt

Pháp thậm-thâm, vi-diệu, thanh-tịnh

Khuyên chư Bồ-Tát nói cùng người

Dạy như vậy khiến lìa phiền-não,

Tất cả thế-gian không bằng được

Nơi chẳng thể khuynh-động dẹp phục

Vì Bồ-Tát kia thường ca ngợi

Dạy như vậy khiến chẳng thối-chuyển.

Phật là thế-gian Ðại-Lực-Chủ

Ðầy đủ tất cả những công-đức

Khiến các Bồ-Tát trụ trong đó

Dùng đây dạy làm Thắng-Trượng-Phu,

Nơi vô-lượng vô-biên chư Phật

Ðều được qua đến để gần gũi

Thường được chư Phật luôn nhiếp thọ

Dạy như vậy khiến chẳng thối chuyển.

Bao nhiêu những tam-muội tịch-tịnh

Thảy đều diễn đạt không còn thừa

Vì Bồ-Tát kia nói như vậy

Do đây khiến kia chẳng thối-chuyển.

Dẹp trừ vòng sanh-tử các cõi

Mà chuyển diệu-pháp thanh-tịnh luân

Tất cả thế-gian không chỗ chấp

Vì các Bồ-Tát nói như vậy.

Tất cả chúng-sanh đọa ác-đạo

Vô-lượng khổ nặng làm bức ngặt

Làm chỗ quy-y cứu hộ họ

Vì các Bồ-Tát nói như vậy.

Ðây là 'Bồ-Tát phát-tâm-trụ'

Nhứt hướng chí cầu vô-thượng-đạo,

Như tôi đã nói pháp dạy bảo

Tất cả chư Phật cũng như vậy.

Thứ hai : 'Bồ-Tát trị-đĩa-trụ'

Phải nên phát khởi tâm như vầy :

Mười phương tất cả những chúng-sanh

Nguyện đều thuận theo lời Phật dạy,

Tâm đại-bi, lợi-ích, an-lạc,

Tâm an-trụ, xót-thương, nhiếp-thọ,

Tâm thủ-hộ chúng-sanh đồng mình,

Tâm làm thầy và tâm đạo-sư,

Ðã trụ tâm thắng-diệu như vậy

Kế khiến tụng tập cầu học rộng

Thường thích tịch-tịnh, chánh tư-duy

Gần-gũi tất cả thiện-tri-thức.

Nói lời hòa vui, lìa thô cứng

Nói tất cả biết thời, không e sợ

Rõ thấu nghĩa lý làm đúng pháp

Xa lìa ngu mê tâm bất động :

Ðây là sơ-học bồ-đề hạnh

Làm được hạnh này : Chơn-Phật-tử

Nay tôi nói chỗ kia nên làm

Như vậy Phật-tử phải siêng học.

Thứ ba : 'Bồ-Tát tu-hành-trụ'

Thường y phật-giáo siêng quan-sát

Các pháp vô-thường, khổ, và không

Cũng không ngã nhơn, không động-tác.

Tất cả các pháp chẳng đáng ưa

Không đúng danh-tự, không xứ-sở

Không chỗ phân-biệt, không chơn thiệt

Người quán như vậy gọi Bồ-Tát.

Kế, khiến quan-sát chúng-sanh giớI

Và cũng quan-sát nơi pháp-giới

Thế-giới sai biệt trọn không thừa

Nơi kia đều nên khuyên quan-sát.

Thập phương thế-giới và hư-không

Bao nhiêu địa, thủy, cùng hỏa, phong

Dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới

Ðều khuyên quán-sát đến cùng tận.

Quán-sát cõi kia đều sai khác

Và thể-tánh nó, đều rốt ráo

Dạy siêng tu hành được như vậy

Ðây thời gọi là chơn Phật-tử.

thứ tư : 'Bồ-Tát sanh-quý-trụ'

Từ các thánh-giáo mà xuất sanh

Rõ thấu các cõi không chỗ có

Vượt qua pháp kia sanh pháp-giới.

Tin Phật kiên-cố, chẳng thể hoại

Quán pháp tịch-diệt, tâm an-trụ

Tùy những chúng-sanh đều rõ biết

Thể-tánh hư-vọng không chơn thiệt.

Thế-gian, sát-độ, nghiệp và báo

Sanh-tử, niết-bàn đều như vậy

Phật-tử nơi pháp quán như vậy

Từ Phật thân sanh, gọi Phật-tử.

Quá-khứ vị-lai và hiện-tại

Trong đó bao nhiêu những phật-pháp

Rõ biết chứa họp và viên-mãn

Tu học như vậy khiến rốt ráo.

Tam-thế tất cả chư Như-Lai

Hay tùy quán-sát đều bình-đẳng

Các thứ sai biệt bất-khả-đắc

Người quán như vậy đạt tam-thế.

Như tôi tán dương ca ngợi đó

Là những công-đức đệ-tứ-trụ

Nếu hay y pháp siêng tu hành

Mau thành Phật bồ-đề vô-thượng.

Ðây đến Bồ-Tát trụ thứ năm

Hiệu là 'cụ-túc-phương-tiện-trụ'

Vào sâu vô-lượng phương-tiện khéo

Phát-sanh nghiệp công-đức rốt ráo.

Bồ-Tát chỗ tu các phước-đức

Ðều vì cứu hộ các quần-sanh

Chuyên tâm làm lợi-ích an-lạc

Một mặt xót thương khiến độ thoát.

Vì tất cả đời trừ các nạn

Dẫn thoát sanh-tử, khiến vui mừng

Mỗi mỗi điều-phục không để sót

Ðều khiến đủ đức hướng niết-bàn.

Tất cả chúng-sanh vô-lượng-biên

Vô-lượng, vô-số, bất-tư-nghị

Nhẫn đến bất-khả-xưng-lượng thảy

Nghe lãnh Như-Lai pháp như vậy.

Ðây là Phật-tử đệ-ngũ-trụ

Thành-tựu phương-tiện độ chúng-sanh

Ðấng đại-trí viên-mãn công-đức

Ðem pháp như vậy để khai-thị.

Thứ sáu : 'chánh-tâm-viên-mãn-trụ'

Nơi pháp tự-tánh không mê hoặc

Chánh-niệm tư-duy, rời phân-biệt

Tất cả trời người chẳng động được.

Nghe khen chê Phật, cùng Phật-pháp

Bồ-Tát và cùng Bồ-Tát hạnh

Chúng-sanh hữu-lượng hoặc vô-lượng

Hữu-cấu vô-cấu, độ khó dễ,

Pháp-giới lớn nhỏ và thành hoại

Hoặc có hoặc không, lòng chẳng động

Quá-khứ, vị-lai và hiện-tại

Nhớ kỹ tư-duy hằng quyết-định.

Tất cả các pháp đều vô-tướng

Vô-thể, vô-tánh, không, vô-thiệt

Như ảo, như mộng, rời phân-biệt

Thường thích được nghe nghĩa như vậy.

Thứ bảy : 'Bất-thối-chuyển Bồ-Tát'

Nơi Phật, phật-pháp, bồ-tát-hạnh

Hoặc có, hoặc không, xuất, chẳng xuất

Dầu nghe thuyết ấy không thối-chuyển.

Quá-khứ, vị-lai và hiện-tại

Tất cả chư Phật có cùng không

Phật-trí hữu-tận hoặc vô-tận

Tam-thế một tướng các thứ tướng.

Một tức là nhiều, nhiều là một

Văn tùy nơi nghĩa, nghĩa tùy văn

Như vậy tất cả xoay vần thành

Bực bất-thối nên vì chúng nói.

Hoặc pháp có tướng và vô-tướng

Hoặc pháp có tánh và vô-tánh

Các thứ sai biệt thuộc lẫn nhau

Người này nghe được rồi rốt ráo.

Thứ tám : 'Bồ-Tát đồng-chơn-trụ'

Thân ngữ ý hạnh đều đầy đủ

Tất cả thanh-tịnh không có lỗi

Tùy ý thọ sanh được tự-tại.

Biết những chúng-sanh lòng sở-thích

Các thứ ý-giải đều sai khác

Và kia chỗ có tất cả pháp

Thập-phương quốc-độ tướng thành hoại,

Ðến được diệu thần-thông mau chóng

Trong tất cả chỗ tùy niệm qua

Nơi chư Phật được nghe diệu-pháp

Khen ngợi tu hành không lười mỏi,

Rõ biết tất cả các phật-độ

Chấn-động, gia-trì và quán-sát

Vượt qua phật-độ vô-lượng-số

Du hành thế-giới vô-biên-số.

Vô-số diệu-pháp đều hỏi han

Chỗ muốn thọ thân đều tự-tại

Ngôn âm thiện-xảo đều sung mãn

Chư Phật vô-số đều thờ kính.

Thứ chín : 'Bồ-Tát vương-tử-trụ'

Hay thấy chúng-sanh thọ sanh khác

Phiền-não hiện, tập, đều biết cả

Chỗ làm phương tiện đều khéo rõ,

Các pháp đều khác, oai-nghi khác

Thế-giới chẳng đồng, thuở trước sau

Như kia thế-tục, đệ-nhứt-nghĩa

Ðều khéo biết rõ không có thừa,

Chỗ Pháp-Vương thiện-xảo an lập

Tùy nơi chỗ kia có diệu-pháp

Pháp-Vương cung-điện hoặc thu nhập

Và trong nơi đó quan-sát thấy,

Pháp-Vương chỗ có pháp quán-đảnh

Thần-lực, gia-trì, không khiếp sợ

Yên nghỉ cung thất, và ngợi khen

Ðem đây dạy bảo Pháp-Vương-Tử.

Như vậy vì nói đều hết cả

Mà khiến tâm kia không chấp trước

Nơi đây rõ biết tu chánh-niệm

Tất cả chư Phật hiện ra trước.

Thứ mười : 'Quán-đảnh chơn-phật-tử'

Thành mãn pháp tối-thượng đệ-nhứt

Thập phương vô-số các thế-giới

Ðều hay chấn-động quang chiếu khắp,

Trụ trì, qua đến, cũng không thừa

Thanh-tịnh trang-nghiêm đều đầy đủ

Khai thị chúng-sanh vô-hạn số

Quan-sát căn-tánh đều biết cả.

Phát tâm điều-phục cũng vô-biên

Ðều khiến thu-hướng đại bồ-đề

Tất cả pháp-giới đều quan-sát

Thập phương quốc-độ đều khiến đến.

Nơi đó, thân và thân hành-động

Thần-thông biến hiện khó lường được

Tam-thế phật-độ các cảnh-giới

Nhẫn đến Vương-Tử không rõ được.

Pháp-giới vô-ngại vô-biên trí

Sung mãn nhất-thiết thế-giới-trí

Chiếu-diệu thế-giới trụ-trì trí

Rõ biết chúng-sanh chư pháp-trí

Và biết chánh-giác vô-biên trí

Như-Lai vì nói đều đủ cả.

Thập-trụ Bồ-Tát như vậy thảy

Ðều từ Như-Lai pháp hóa-sanh

Tùy kia chỗ có công-đức hạnh

Tất cả trời người chẳng lường được.

Quá-khứ, vị-lai và hiện-tại

Phát tâm cầu Phật số vô-biên

Thập-phương quốc-độ đều sung-mãn

Ðều sẽ được thành nhứt-thiết-trí.

Tất cả quốc-độ không ngằn mé

Thế-giới chúng-sanh pháp cũng vậy

Hoặc, nghiệp, sở-thích đều khác biệt

Nương đó mà phát bồ-đề tâm.

Ban đầu một niệm cầu Phật-đạo

Chúng-sanh thế-gian và nhị-thừa

Hết sức suy gẫm còn chẳng biết

Huống là bao nhiêu công-đức khác.

Thập-phương tất cả các thế-giới

Dùng một lông đều cân nhắc được,

Người đó biết được phật-tử này

Công-hạnh hướng đến Phật đại-trí.

Thập phương chỗ có những biển lớn

Ðều dùng sợi lông chấm khiến cạn,

Người đó biết được phật-tử này

Công-đức tu hành trong một niệm.

Tất cả thế-giới nghiền làm bụi

Ðều phân-biệt được biết rõ số,

Người như vậy mới có thể thấy

Ðạo tu hành của Bồ-Tát này.

Thập phương chư Phật trong tam-thế

Tất cả Ðộc-Giác và Thinh-Văn

Ðều dùng tất cả diệu biệt-tài

Khai thị sơ phát bồ-đề tâm.

Phát tâm công-đức chẳng lường được

Sung-mãn tất cả cõi chúng-sanh

Chúng trí cùng nói không hết được

Huống là bao nhiêu diệu-hạnh khác.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12546)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10460)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12405)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11708)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28883)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12098)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13071)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11503)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12434)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17517)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53183)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35567)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21530)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10729)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19343)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12476)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26148)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13392)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14446)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16127)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13772)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16910)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17677)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13214)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12575)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11669)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11677)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14574)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20547)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19117)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19666)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18779)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12250)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12389)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13946)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15135)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15108)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14040)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15578)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11474)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17273)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15049)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20306)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14669)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13925)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11786)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15114)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13047)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22954)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14608)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11724)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13217)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16958)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18406)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11991)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11562)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15919)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12948)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18983)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18522)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant