Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Phẩm Bồ-Tát Vấn Minh

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 16612)
10. Phẩm Bồ-Tát Vấn Minh

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM BỒ TÁT VẤN MINH
THỨ MƯỜI


 Lúc bấy giờ, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Giác-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Tâm-tánh vốn là một, sao lại thấy có các thứ sai khác ? Những là :

Ðến đường lành nẻo dữ, căn thân có đủ có thiếu, thọ sanh đồng và khác, đẹp-đẽ cùng xấu-xí, nào vui nào khổ, nghiệp không biết tâm, mà tâm cũng chẳng biết nghiệp, thọ không rõ báo mà báo cũng chẳng rõ thọ, tâm chẳng biết thọ mà thọ cũng không biết tâm, nhơn không biết duyên mà duyên cũng chẳng biết nhơn, trí chẳng biết cảnh mà cảnh cũng chẳng biết trí.

Giác-Thủ Bồ-Tát nói kệ để đáp :

Nay ngài hỏi nghĩa này

Vì Liễu-ngộ quần-mông

Cứ tánh kia, tôi đáp

Xin ngài lóng nghe cho.

Các pháp không tác dụng

Cũng không có thể tánh

Vì thế nên các pháp

Ðều chẳng biết được nhau.

Ví như nước trong sông

Các dòng đua nhau chảy

Chúng đều chẳng biết nhau

Các pháp cũng như vậy.

Lại cũng như đống lửa

Ðồng thời phát ngọn to

Chúng đều chẳng biết nhau

Các pháp cũng như vậy.

Lại như gió lớn thổi

Xao động các cảnh vật

Chúng đều chẳng biết nhau

Các pháp cũng như vậy.

Lại như các địa-giới

Xây vần nương tựa nhau

Các pháp cũng như vậy.

Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân

Tâm-ý sáu tình-căn

Do dây thường lưu-chuyển

Nhưng vẫn không năng-chuyển.

Pháp-tánh vốn vô-sanh

Trong đây không năng hiện

Cũng không vật sở-hiện.

Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân

Tâm-ý sáu tình-căn

Tất cả rỗng vô-tánh

Vọng phân-biệt mà có.

Cứ đúng lý quan-sát

Tất cả đều vô-tánh

Pháp-nhãn bất-tư-nghì

Ðây là thấy chơn thật.

Hoặc vọng hay chẳng vọng

Hoặc thiệt hoặc chẳng thiệt

Thế-gian cùng xuất-thế

Chỉ là giả ngôn-thuyết.

Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Tài-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Ðức Như-Lai tùy thờI-gian như thế-nào, cũng như tùy mạng-sống, tùy thân-thể, tùy hành-vi, tùy hiểu-biết, tùy ngôn-luận, tùy sở-thích, tùy phương-tiện, tùy tư-duy, tùy quan-sát của chúng-sanh như thế nào, mà hiện thân Phật để giáo-hóa điều-phục các chúng-sanh ấy ?

Tài-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Ðây là cảnh của bực

Ða-Văn thích tịch-diệt,

Nay tôi vì ngài đáp

Xin ngài chú ý nghe.

Phân biệt quán nội-thân

Trong đây gì là ta ?

Nếu hiểu được như vậy

Thời biết ta không.

Thân này là giả tạo

Chỗ trụ không nơi chỗ

Người thiệt-biết thân này

Trong đây không chấp trước.

Nơi thân khéo quan-sát

Tất cả đều thấy rõ

Biết pháp đều hư-vọng

Chẳng khởi tâm phân-biệt.

Mạng sống nhơn gì có

Rồi nhơn gì tan mất

Khác nào vòng lửa xây

Ðầu đuôi chẳng biết được.

người trí hay quan-sát

Có tướng đều vô-thường

Các pháp, không, vô-ngã

Lìa hẳn tất cả tướng.

Các báo, tùy nghiệp sanh

Giả dối như giấc mơ

Luôn luôn thường diệt hoại

Như trước, sau cũng vậy.

Những pháp thấy ở đời

Chỉ do tâm làm chủ,

Tùy hiểu chấp lấy tướng

Ðiên-đảo chẳng đúng thật.

Những ngôn-luận trong đời

Ðều do phân biệt cả

Chưa từng có một pháp

Ðược vào nơi pháp-tánh.

Sức năng-duyên, sở-duyên

Sanh ra những pháp-tướng

Chóng diệt, chẳng tạm dừng

Niệm niệm đều như vậy.

Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Bửu-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Tất cả chúng-sanh đồng có tứ-đại, không ngã, không ngã-sở, tại sao lại có những sự khác biệt, như khổ vui, tốt xấu, ưa trong chuộng ngoài, thọ ít hưởng nhiều, hoặc hiện báo, hoặc hậu báo. Nhưng trong pháp-giới vẫn không tốt xấu ?

Bửu-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Cứ theo nghiệp đã tạo

Sanh quả báu như vậy

Ðều không có tác-giả

Ðây là lời chư Phật.

Như mặt gương sáng sạch

Tùy theo cảnh đối tượng

Hiện bóng sai khác nhau

Nghiệp tánh cũng như vậy.

Cũng như ruộng gieo giống

Chúng đều chẳng biết nhau

Tự nhiên mọc lên cây

Nghiệp tánh cũng như vậy.

Như nhà ảo thuật giỏi

Ở tại ngã tư đường

Hiện ra những sắc-tướng

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Như người gỗ máy móc

Hay vang ra các tiếng

Nó không ngã ngã-sở

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Cũng như giống chim bay

Từ trứng nở sanh ra

Tiếng kêu không đồng nhau

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Ví như trong thai-tạng

Căn thân đều thành-tựu

Thể-tướng không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Lại như ở địa-ngục

Bao nhiêu là sự khổ

Kia đều không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Như vua Chuyển-luân-vương

Có đủ bảy thứ bảo

Chỗ đến không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Lại như các thế-giới

Lúc đại-hỏa cháy tan

Lửa này không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Ðức-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Chỗ giác-ngộ của Ðức Như-Lai chỉ là một pháp duy-nhứt, sao lại bảo là vô-lượng-pháp, hiện vô-lượng cõi, hóa vô-lượng-chúng, diễn vô-lượng âm, thị vô-lượng thân, biết vô-lượng tâm, hiện vô-lượng thần-thông, có thể chấn động khắp vô-lượng thế-giới, thị-hiện vô-lượng sự thù-thắng trang-nghiêm, hiển-thị vô-biên nhiều loại cảnh-giới. Nhưng trong pháp-tánh các tướng sai-biệt này đều bất-khả-đắc.

Ðức-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Nghĩa của Phật-tử hỏi

Rất sâu khó rõ được

Người trí biết nghĩa này

Thường chứa công-đức Phật.

Như đất chỉ một tánh

Mọi loài ở riêng chỗ

Ðất không nghĩ đồng khác

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như một đại-hải

Ngàn vạn lượng sóng trào

Nước biển vẫn duy nhứt

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như gió một tánh

Thổi động tất cả vật

Gió không nghĩ đồng khác

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như mây sấm lớn

Mưa khắp cả mọi nơi

Nước mưa vẫn không khác

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như mặt đất kia

Mọc lên nhiều mầm mộng

Mặt đất chỉ là một

Pháp chư Phật như vậy.

Mặt nhựt không mây mờ

Chiếu sáng khắp mười phương

Quang-minh không sai khác

Pháp chư Phật như vậy.

Như mặt nguyệt trên cao

Mọi nơi đều nhìn thấy

Mặt nguyệt vẫn một chỗ

Pháp chư Phật như vậy.

Ví như Ðại-Phạm-Vương

Ứng hiện khắp đại-thiên

Thân ngài vẫn không khác

Pháp chư Phật như vậy.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Mục-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Như-Lai phước-điền đồng một không sai khác, sao lại thấy chúng-sanh bố-thí được của quả-báo chẳng đồng? Những là :

Nhiều loại sắc, nhiều loại thân, nhiều loại căn, nhiều loại nhà, nhiều loại chủ, nhiều loại quyến thuộc, nhiều loại quan-chức, nhiều loại công-đức, nhiều loại trí-huệ.

Nhưng đức Phật đối với họ, tâm Phật thường bình-đẳng, không có quan-niệm riêng khác ?

Mục-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Như tất cả vẫn là một

Theo giống mọc mầm khác

Ðất không ý thân sơ

Phật phước-điền cũng vậy.

Lại như nước một vị

Nhơn đồ đựng có khác

Phật phước-điền vẫn một

Do tâm người thành khác.

Như nhà ảo thuật khéo

Làm mọi người hoan-hỉ

Phật phước-điền cũng vậy

Khiến chúng-sanh kính vui.

Như vua có tài trí

Hay khiến nhơn-dân mừng

Phật phước-điền cũng vậy

Khiến chúng đều an-vui.

Như mặt gương sáng sạch

Theo hình mà hiện bóng

Phật phước-điền cũng vậy

Tùy tâm được báo khác.

Như thuốc A-gìa-đà

Trị được tất cả độc

Phật phước-điền cũng vậy

Dứt các hoạ phiền não.

Như lúc mặt trời mọc

Chiếu sáng khắp thế-gian

Phật phước-điền cũng vậy

Phá trừ những tối tăm.

Như mặt nguyệt tròn sáng

Chiếu khắp cõi đại-địa

Phật phước-điền cũng vậy

Bình-đẳng với tất cả.

Ví như gió tỳ-lam

Chấn-động khắp đại địa

Phật phước-điền cũng vậy

Ðộng chúng-sanh ba cõi.

Như đại hỏa nổi lên

Ðốt cháy tất cả vật

Phật phước-điền cũng vậy

Ðốt tất cả hữu-vi.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Cần-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Phật-giáo là một, chúng-sanh được thấy biết, cớ sao không liền đều dứt trừ tất cả phiền-não hệ-phược mà được xuất-ly ? Nhưng nơi chúng-sanh, sắc, thọ, tưởng, hành và thức, năm uẩn, dục, sắc, vô-sắc, ba cõi, vô-minh, tham-ái đều không sai khác. Như thế thời Phật-giáo, đối với chúng-sanh, hoặc có lợi ích, hoặc không có lợi ích ?

Cần-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Phật-tử khéo lóng nghe

Nay tôi cứ thiệt đáp

Hoặc có mau giải-thoát

Hoặc có khó xuất-ly.

Nếu muốn cầu dứt trừ

Vô-lượng những lỗi ác

Nên ở trong Phật-pháp

Dũng-mãnh thường tinh-tấn.

Ví như chút ít lửa

Ðốt ướt thời chóng tắt

Ở nơi trong Phật-pháp

Người giải-đãi cũng vậy.

Như cọ cây lấy lửa

Chưa cháy mà nghỉ luôn

Thế lửa liền tắt nguội

Người giải-đãi cũng vậy.

Như người cầm nhựt châu

Chẳng dùng vật tiếp bóng

Trọn không thể được lửa

Người giải-đãi cũng vậy

Như ánh nắng quá chói

Trẻ nít nhắm đôi mắt

Tự nói sao không thấy

Người giải-đãi cũng vậy

Như người không tay chân

Muốn dùng cỏ làm tên

Bắn phá cả đại-địa

Người giải-đãi cũng vậy

Như lấy một đầu lông

Muốn chấm khô đại hải

Người giải-đãi cũng vậy

Không thể dứt hoặc nghiệp.

Lại như kiếp-hỏa nổi

Muốn tắt với ít nước

Ở nơi trong Phật-pháp

Người giải-đãi cũng vậy.

Như người ngó hư-không

Ngồi yên không giao-động

Nói mình bay đi khắp

Người giải-đãi cũng vậy.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Pháp-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Như lời đức Phật dạy : Nếu có chúng-sanh thọ-trì Chánh-pháp thời đều có thể dứt trừ tất cả phiền-não ?

Nhưng cớ sao có người thọ-trì chánh-pháp lại tùy thế-lực của tham, sân, si, mạn, tùy thế-lực của phú, phẩn, hận, tật, xan, cuống, siểm ... xoay chuyển không rời nơi tâm. Người hay thọ-trì pháp, cớ sao lại ở trong tâm hành khởi các phiền-não ?

Pháp-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Phật-tử khéo lóng nghe

Thật nghĩa ngài đã hỏi

Vì chẳng phải đa-văn

Mà vào được Phật-pháp.

Như người trôi giữa dòng

Sợ chìm mà chết khát

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như trần-thiết vật thực

Chẳng ăn phải đói

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như người giỏi dược-phương

Chẳng cứu được bịnh mình

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như người đếm châu báu

Tự mình vẫn nghèo nàn

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như người ở vương-cung

Mà tự chịu đói rét

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như điếc tấu âm-nhạc

Người nghe mình chẳng nghe

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như mù họa hình tượng

Người thấy mình chẳng thấy

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Ví như nhà hàng-hải

Mà tự chết trong biển

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như ở ngã tư đường

Giảng nói những điều tốt

Mà tự không thật-đức

Chẳng tu cũng như vậy.

Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Trí-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Trong phật-pháp, trí-huệ là trên tất cả. Cớ sao với các chúng-sanh, đức Phật hoặc ca ngợi sự bố-thí, sự trì-giới, hoặc ca ngợi sự nhẫn-nhục, sự tinh-tấn, thiền-định, trí-huệ, từ-bi, hỉ xả ... , mà chẳng chỉ dùng một pháp để được giải-thoát, thành vô-lượng chánh-đẳng chánh-giác ?

Trí-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Phật-tử rất hi-hữu

Biết rõ tâm chúng-sanh

Xin lóng nghe tôi đáp

Những nghĩa ngài đã hỏi.

Chư Phật thuở quá-khứ

Hiện-tại và vị-lai

Không có nói một pháp

Mà chứng được đạo-quả.

Phật biết tâm chúng-sanh

Tánh phận đều chẳng đồng

Tùy chỗ họ đáng thọ

Theo đó mà thuyết pháp.

Vì kẻ tham, khuyên thí

Vì người lỗi, khen giới

Nhiều sân, thời khuyên nhẫn

Giải-đãi, thời khuyên siêng.

Loạn tâm phải tu-định

Ngu-si trau trí-huệ

Bất-nhơn phải từ-mẫn

Giận-hại khuyên rèn bi.

Lo rầu thời ngợi hỉ

Chấp trước lời khen xả

Tuần tự tu như vậy

Lần đủ các phật-pháp.

Như trước xây nền móng

Rồi sau tạo nhà cửa

Thí và giới cũng vậy

Là gốc hạnh Bồ-Tát.

Ví như dựng thành quách

Ðể bảo hộ dân chúng

Nhẫn và tấn cũng vậy

Phòng hộ chư Bồ-Tát.

Ví như Ðại-Lực-Vương

Cả nước đều ngưỡng vọng

Ðịnh huệ cũng như vậy

Chỗ tựa của Bồ-Tát.

Cũng như vua chuyển-luân

Ban vui cho nhân-loại

Từ bihỉ xả

Làm Bồ-Tát an vui.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Hiền-Thủ Bồ-Tát rằng : 'Phật-tử ! Chư Phật chỉ do một đạo mà được giải-thoát. Cớ sao hiện nay thấy tất cả phật-độ lại có nhiều sự không đồng, những là :

Thế-giới, chúng-sanh-giới, thuyết-pháp, điều-phục, thọ-lượng, quang-minh, thần-thông, chúng-hội, giáo-nghĩa, pháp-trụ v.v... đều sai khác nhau.

Không có vị nào chẳng đủ tất cả phật-pháp mà được thành vô-thượng bồ-đề ?

Hiền-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Thưa ngài ! Pháp thường vậy

Pháp-Vương pháp duy-nhất

Tất cả chư Như-Lai

Một đạo mà giải-thoát.

Thân của tất cả Phật chỉ là một pháp-thân

Nhứt-tâ, nhứt trí-huệ

Lực vô-úy cũng vậy.

Như trước đến bồ-đề

Bao nhiêu tâm hồi hướng

Ðược cõi nước như vậy

Chúng-hội và thuyết-pháp.

Tất cả các cõi Phật

Trang-nghiêm đều viên-mãn

Tùy chúng-sanh hạnh khác

Thấy chẳng đồng như vậy

Cõi Phật cùng thân Phật

Chúng hộingôn thuyết

Các phật-pháp như vậy

Chúng-sanh chẳng thấy được.

Tâm ý đã thanh-tịnh

Hạnh-nguyện đều đầy đủ

Người sáng suốt như vậy

Mới được thấy nơi đây.

Tùy chúng-sanh tâm thích

Và cùng sức nghiệp-quả

Thấy sai khác như vậy

Do oai thần của Phật.

Cõi Phật vô-sai-biệt

Không ghét cũng không thương

Chỉ tùy tâm chúng-sanh

Thấy có khác như vậy.

Do đây nơi thế-giới

Chỗ thấy đều sai khác

Chẳng phải chư Như-Lai

Bực Ðại-Tiên có lỗi.

Tất cả các thế-giới

Người đáng được giáo-hóa

Thường được thấy Thế-Tôn

Pháp chư Phật như vậy.

Lúc đó chư Bồ-Tát nói với Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Chúng tôi đã tự nói chỗ hiểu biết của mình rồi. Xin ngài dùng diệu-biện-tài diễn sướng những cảnh-giới của Như-Lai:

Những gì là cảnh-giới của Phật ? Những gì là nhơn của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự nhập vào của cảnh-giới Phật ? Những gì là trí của cảnh-giới Phật ? Những gì là pháp của cảnh-giới Phật ? Những gì là ngôn-thuyết của cảnh-giới Phật ? những gì là sự hiểu biết của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự chứng của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự hiện ở của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự rộng lớn của cảnh-giới Phật ?

Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Như-Lai cảnh-giới sâu

Lượng đó khắp hư-không

Tất cả chúng-sanh vào

thật không chỗ nhập.

Như-Lai cảnh-giới sâu

Bao nhiêu nhơn thắng diệu

Ức kiếp thường tuyên nói

Cũng lại chẳng thể hết.

Tùy tâm trí huệ mình

Khuyến tấn đều khiến lợi

Ðộ chúng-sanh như vậy

Là cảnh-giới chư Phật.

Những cõi nước thế-gian

Tất cả đều theo vào

Trí thân không có sắc

Chẳng phải kia thấy được.

Chư Phật trí tự-tại

Tam-thế không chướng ngại

Cảnh-giới huệ như vậy

Bình-đẳng như hư-không.

Pháp-giới chúng-sanh-giới

Rốt ráo không sai khác

Tất cả đều rõ biết

Ðây là cảnh-giới Phật.

Trong tất cả thế-giới

Bao nhiêu những âm-thinh

Phật-trí đều tùy rõ

Cũng không có phân-biệt.

Chẳng phải thức biết được

Chẳng phải tâm cảnh-giới

Tánh đó vốn thanh-tịnh

Khai-thị các quần-sanh.

Chẳng nghiệp chẳng phiền-não

Không vật không trụ-xứ

Không chiếu không sở-hành

Bình-đẳng đi thế-gian.

Tất cả tâm chúng-sanh

Khắp ở trong ba thời

Như-Lai nơi một niệm

Tất cả đều rõ thấu.

Lúc bấy giờ trong cõi Ta-Bà này, tất cả chúng-sanh, bao nhiêu pháp sai-biệt, nghiệp sai-biệt, thế-gian sai-biệt, thân sai-biệt, căn sai-biệt, thọ sanh sai-biệt, trì-giới quả sai-biệt, phạm-giới quả sai-biệt, quốc-độ quả sai-biệt, do thần-lực của Phật thảy đều hiện rõ.

Phương đông, trăm ngàn ức na-do-tha vô-số, vô-lượng, vô-biên, vô-đẳng, bất-khả-số, bất-khả-xưng, bất-khả-tư, bất-khả-lượng, bất-khả-thuyết, tận pháp-giới hư-không-giới, trong tất cả thế-giới, bao nhiêu chúng-sanh pháp sai-biệt, đều do thần-lực của Phật mà hiển hiện rõ ràng.

Những phương Nam, Tây, Bắc, Ðông-Bắc, Ðông-Nam, Tây-Nam, Tây-Bắc, thượng, hạ, cũng đều như vậy.

********************

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31332)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26223)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27515)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27903)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26702)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31221)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20260)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22915)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30039)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21570)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20237)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22659)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20745)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30304)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28786)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34721)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44218)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35510)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22533)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21372)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20682)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24751)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37914)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19030)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19321)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21812)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20869)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29519)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35116)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28814)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32600)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26222)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28930)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43140)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34947)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43917)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37885)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21325)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43025)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49005)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39834)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53777)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36822)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40808)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49730)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47306)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27694)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27025)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24070)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20844)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34313)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22465)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25118)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25844)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22948)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22472)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21746)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23318)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21181)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant