Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Phẩm Bồ-Tát Vấn Minh

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 16613)
10. Phẩm Bồ-Tát Vấn Minh

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM BỒ TÁT VẤN MINH
THỨ MƯỜI


 Lúc bấy giờ, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Giác-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Tâm-tánh vốn là một, sao lại thấy có các thứ sai khác ? Những là :

Ðến đường lành nẻo dữ, căn thân có đủ có thiếu, thọ sanh đồng và khác, đẹp-đẽ cùng xấu-xí, nào vui nào khổ, nghiệp không biết tâm, mà tâm cũng chẳng biết nghiệp, thọ không rõ báo mà báo cũng chẳng rõ thọ, tâm chẳng biết thọ mà thọ cũng không biết tâm, nhơn không biết duyên mà duyên cũng chẳng biết nhơn, trí chẳng biết cảnh mà cảnh cũng chẳng biết trí.

Giác-Thủ Bồ-Tát nói kệ để đáp :

Nay ngài hỏi nghĩa này

Vì Liễu-ngộ quần-mông

Cứ tánh kia, tôi đáp

Xin ngài lóng nghe cho.

Các pháp không tác dụng

Cũng không có thể tánh

Vì thế nên các pháp

Ðều chẳng biết được nhau.

Ví như nước trong sông

Các dòng đua nhau chảy

Chúng đều chẳng biết nhau

Các pháp cũng như vậy.

Lại cũng như đống lửa

Ðồng thời phát ngọn to

Chúng đều chẳng biết nhau

Các pháp cũng như vậy.

Lại như gió lớn thổi

Xao động các cảnh vật

Chúng đều chẳng biết nhau

Các pháp cũng như vậy.

Lại như các địa-giới

Xây vần nương tựa nhau

Các pháp cũng như vậy.

Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân

Tâm-ý sáu tình-căn

Do dây thường lưu-chuyển

Nhưng vẫn không năng-chuyển.

Pháp-tánh vốn vô-sanh

Trong đây không năng hiện

Cũng không vật sở-hiện.

Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân

Tâm-ý sáu tình-căn

Tất cả rỗng vô-tánh

Vọng phân-biệt mà có.

Cứ đúng lý quan-sát

Tất cả đều vô-tánh

Pháp-nhãn bất-tư-nghì

Ðây là thấy chơn thật.

Hoặc vọng hay chẳng vọng

Hoặc thiệt hoặc chẳng thiệt

Thế-gian cùng xuất-thế

Chỉ là giả ngôn-thuyết.

Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Tài-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Ðức Như-Lai tùy thờI-gian như thế-nào, cũng như tùy mạng-sống, tùy thân-thể, tùy hành-vi, tùy hiểu-biết, tùy ngôn-luận, tùy sở-thích, tùy phương-tiện, tùy tư-duy, tùy quan-sát của chúng-sanh như thế nào, mà hiện thân Phật để giáo-hóa điều-phục các chúng-sanh ấy ?

Tài-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Ðây là cảnh của bực

Ða-Văn thích tịch-diệt,

Nay tôi vì ngài đáp

Xin ngài chú ý nghe.

Phân biệt quán nội-thân

Trong đây gì là ta ?

Nếu hiểu được như vậy

Thời biết ta không.

Thân này là giả tạo

Chỗ trụ không nơi chỗ

Người thiệt-biết thân này

Trong đây không chấp trước.

Nơi thân khéo quan-sát

Tất cả đều thấy rõ

Biết pháp đều hư-vọng

Chẳng khởi tâm phân-biệt.

Mạng sống nhơn gì có

Rồi nhơn gì tan mất

Khác nào vòng lửa xây

Ðầu đuôi chẳng biết được.

người trí hay quan-sát

Có tướng đều vô-thường

Các pháp, không, vô-ngã

Lìa hẳn tất cả tướng.

Các báo, tùy nghiệp sanh

Giả dối như giấc mơ

Luôn luôn thường diệt hoại

Như trước, sau cũng vậy.

Những pháp thấy ở đời

Chỉ do tâm làm chủ,

Tùy hiểu chấp lấy tướng

Ðiên-đảo chẳng đúng thật.

Những ngôn-luận trong đời

Ðều do phân biệt cả

Chưa từng có một pháp

Ðược vào nơi pháp-tánh.

Sức năng-duyên, sở-duyên

Sanh ra những pháp-tướng

Chóng diệt, chẳng tạm dừng

Niệm niệm đều như vậy.

Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Bửu-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Tất cả chúng-sanh đồng có tứ-đại, không ngã, không ngã-sở, tại sao lại có những sự khác biệt, như khổ vui, tốt xấu, ưa trong chuộng ngoài, thọ ít hưởng nhiều, hoặc hiện báo, hoặc hậu báo. Nhưng trong pháp-giới vẫn không tốt xấu ?

Bửu-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Cứ theo nghiệp đã tạo

Sanh quả báu như vậy

Ðều không có tác-giả

Ðây là lời chư Phật.

Như mặt gương sáng sạch

Tùy theo cảnh đối tượng

Hiện bóng sai khác nhau

Nghiệp tánh cũng như vậy.

Cũng như ruộng gieo giống

Chúng đều chẳng biết nhau

Tự nhiên mọc lên cây

Nghiệp tánh cũng như vậy.

Như nhà ảo thuật giỏi

Ở tại ngã tư đường

Hiện ra những sắc-tướng

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Như người gỗ máy móc

Hay vang ra các tiếng

Nó không ngã ngã-sở

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Cũng như giống chim bay

Từ trứng nở sanh ra

Tiếng kêu không đồng nhau

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Ví như trong thai-tạng

Căn thân đều thành-tựu

Thể-tướng không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Lại như ở địa-ngục

Bao nhiêu là sự khổ

Kia đều không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Như vua Chuyển-luân-vương

Có đủ bảy thứ bảo

Chỗ đến không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy.

Lại như các thế-giới

Lúc đại-hỏa cháy tan

Lửa này không từ đâu

Nghiệp-tánh cũng như vậy

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Ðức-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Chỗ giác-ngộ của Ðức Như-Lai chỉ là một pháp duy-nhứt, sao lại bảo là vô-lượng-pháp, hiện vô-lượng cõi, hóa vô-lượng-chúng, diễn vô-lượng âm, thị vô-lượng thân, biết vô-lượng tâm, hiện vô-lượng thần-thông, có thể chấn động khắp vô-lượng thế-giới, thị-hiện vô-lượng sự thù-thắng trang-nghiêm, hiển-thị vô-biên nhiều loại cảnh-giới. Nhưng trong pháp-tánh các tướng sai-biệt này đều bất-khả-đắc.

Ðức-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Nghĩa của Phật-tử hỏi

Rất sâu khó rõ được

Người trí biết nghĩa này

Thường chứa công-đức Phật.

Như đất chỉ một tánh

Mọi loài ở riêng chỗ

Ðất không nghĩ đồng khác

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như một đại-hải

Ngàn vạn lượng sóng trào

Nước biển vẫn duy nhứt

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như gió một tánh

Thổi động tất cả vật

Gió không nghĩ đồng khác

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như mây sấm lớn

Mưa khắp cả mọi nơi

Nước mưa vẫn không khác

Pháp chư Phật như vậy.

Cũng như mặt đất kia

Mọc lên nhiều mầm mộng

Mặt đất chỉ là một

Pháp chư Phật như vậy.

Mặt nhựt không mây mờ

Chiếu sáng khắp mười phương

Quang-minh không sai khác

Pháp chư Phật như vậy.

Như mặt nguyệt trên cao

Mọi nơi đều nhìn thấy

Mặt nguyệt vẫn một chỗ

Pháp chư Phật như vậy.

Ví như Ðại-Phạm-Vương

Ứng hiện khắp đại-thiên

Thân ngài vẫn không khác

Pháp chư Phật như vậy.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Mục-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Như-Lai phước-điền đồng một không sai khác, sao lại thấy chúng-sanh bố-thí được của quả-báo chẳng đồng? Những là :

Nhiều loại sắc, nhiều loại thân, nhiều loại căn, nhiều loại nhà, nhiều loại chủ, nhiều loại quyến thuộc, nhiều loại quan-chức, nhiều loại công-đức, nhiều loại trí-huệ.

Nhưng đức Phật đối với họ, tâm Phật thường bình-đẳng, không có quan-niệm riêng khác ?

Mục-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Như tất cả vẫn là một

Theo giống mọc mầm khác

Ðất không ý thân sơ

Phật phước-điền cũng vậy.

Lại như nước một vị

Nhơn đồ đựng có khác

Phật phước-điền vẫn một

Do tâm người thành khác.

Như nhà ảo thuật khéo

Làm mọi người hoan-hỉ

Phật phước-điền cũng vậy

Khiến chúng-sanh kính vui.

Như vua có tài trí

Hay khiến nhơn-dân mừng

Phật phước-điền cũng vậy

Khiến chúng đều an-vui.

Như mặt gương sáng sạch

Theo hình mà hiện bóng

Phật phước-điền cũng vậy

Tùy tâm được báo khác.

Như thuốc A-gìa-đà

Trị được tất cả độc

Phật phước-điền cũng vậy

Dứt các hoạ phiền não.

Như lúc mặt trời mọc

Chiếu sáng khắp thế-gian

Phật phước-điền cũng vậy

Phá trừ những tối tăm.

Như mặt nguyệt tròn sáng

Chiếu khắp cõi đại-địa

Phật phước-điền cũng vậy

Bình-đẳng với tất cả.

Ví như gió tỳ-lam

Chấn-động khắp đại địa

Phật phước-điền cũng vậy

Ðộng chúng-sanh ba cõi.

Như đại hỏa nổi lên

Ðốt cháy tất cả vật

Phật phước-điền cũng vậy

Ðốt tất cả hữu-vi.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Cần-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Phật-giáo là một, chúng-sanh được thấy biết, cớ sao không liền đều dứt trừ tất cả phiền-não hệ-phược mà được xuất-ly ? Nhưng nơi chúng-sanh, sắc, thọ, tưởng, hành và thức, năm uẩn, dục, sắc, vô-sắc, ba cõi, vô-minh, tham-ái đều không sai khác. Như thế thời Phật-giáo, đối với chúng-sanh, hoặc có lợi ích, hoặc không có lợi ích ?

Cần-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Phật-tử khéo lóng nghe

Nay tôi cứ thiệt đáp

Hoặc có mau giải-thoát

Hoặc có khó xuất-ly.

Nếu muốn cầu dứt trừ

Vô-lượng những lỗi ác

Nên ở trong Phật-pháp

Dũng-mãnh thường tinh-tấn.

Ví như chút ít lửa

Ðốt ướt thời chóng tắt

Ở nơi trong Phật-pháp

Người giải-đãi cũng vậy.

Như cọ cây lấy lửa

Chưa cháy mà nghỉ luôn

Thế lửa liền tắt nguội

Người giải-đãi cũng vậy.

Như người cầm nhựt châu

Chẳng dùng vật tiếp bóng

Trọn không thể được lửa

Người giải-đãi cũng vậy

Như ánh nắng quá chói

Trẻ nít nhắm đôi mắt

Tự nói sao không thấy

Người giải-đãi cũng vậy

Như người không tay chân

Muốn dùng cỏ làm tên

Bắn phá cả đại-địa

Người giải-đãi cũng vậy

Như lấy một đầu lông

Muốn chấm khô đại hải

Người giải-đãi cũng vậy

Không thể dứt hoặc nghiệp.

Lại như kiếp-hỏa nổi

Muốn tắt với ít nước

Ở nơi trong Phật-pháp

Người giải-đãi cũng vậy.

Như người ngó hư-không

Ngồi yên không giao-động

Nói mình bay đi khắp

Người giải-đãi cũng vậy.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Pháp-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Như lời đức Phật dạy : Nếu có chúng-sanh thọ-trì Chánh-pháp thời đều có thể dứt trừ tất cả phiền-não ?

Nhưng cớ sao có người thọ-trì chánh-pháp lại tùy thế-lực của tham, sân, si, mạn, tùy thế-lực của phú, phẩn, hận, tật, xan, cuống, siểm ... xoay chuyển không rời nơi tâm. Người hay thọ-trì pháp, cớ sao lại ở trong tâm hành khởi các phiền-não ?

Pháp-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Phật-tử khéo lóng nghe

Thật nghĩa ngài đã hỏi

Vì chẳng phải đa-văn

Mà vào được Phật-pháp.

Như người trôi giữa dòng

Sợ chìm mà chết khát

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như trần-thiết vật thực

Chẳng ăn phải đói

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như người giỏi dược-phương

Chẳng cứu được bịnh mình

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như người đếm châu báu

Tự mình vẫn nghèo nàn

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như người ở vương-cung

Mà tự chịu đói rét

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như điếc tấu âm-nhạc

Người nghe mình chẳng nghe

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như mù họa hình tượng

Người thấy mình chẳng thấy

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Ví như nhà hàng-hải

Mà tự chết trong biển

Nơi pháp chẳng tu-hành

Ða-văn cũng như vậy.

Như ở ngã tư đường

Giảng nói những điều tốt

Mà tự không thật-đức

Chẳng tu cũng như vậy.

Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Trí-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Trong phật-pháp, trí-huệ là trên tất cả. Cớ sao với các chúng-sanh, đức Phật hoặc ca ngợi sự bố-thí, sự trì-giới, hoặc ca ngợi sự nhẫn-nhục, sự tinh-tấn, thiền-định, trí-huệ, từ-bi, hỉ xả ... , mà chẳng chỉ dùng một pháp để được giải-thoát, thành vô-lượng chánh-đẳng chánh-giác ?

Trí-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Phật-tử rất hi-hữu

Biết rõ tâm chúng-sanh

Xin lóng nghe tôi đáp

Những nghĩa ngài đã hỏi.

Chư Phật thuở quá-khứ

Hiện-tại và vị-lai

Không có nói một pháp

Mà chứng được đạo-quả.

Phật biết tâm chúng-sanh

Tánh phận đều chẳng đồng

Tùy chỗ họ đáng thọ

Theo đó mà thuyết pháp.

Vì kẻ tham, khuyên thí

Vì người lỗi, khen giới

Nhiều sân, thời khuyên nhẫn

Giải-đãi, thời khuyên siêng.

Loạn tâm phải tu-định

Ngu-si trau trí-huệ

Bất-nhơn phải từ-mẫn

Giận-hại khuyên rèn bi.

Lo rầu thời ngợi hỉ

Chấp trước lời khen xả

Tuần tự tu như vậy

Lần đủ các phật-pháp.

Như trước xây nền móng

Rồi sau tạo nhà cửa

Thí và giới cũng vậy

Là gốc hạnh Bồ-Tát.

Ví như dựng thành quách

Ðể bảo hộ dân chúng

Nhẫn và tấn cũng vậy

Phòng hộ chư Bồ-Tát.

Ví như Ðại-Lực-Vương

Cả nước đều ngưỡng vọng

Ðịnh huệ cũng như vậy

Chỗ tựa của Bồ-Tát.

Cũng như vua chuyển-luân

Ban vui cho nhân-loại

Từ bihỉ xả

Làm Bồ-Tát an vui.

Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Hiền-Thủ Bồ-Tát rằng : 'Phật-tử ! Chư Phật chỉ do một đạo mà được giải-thoát. Cớ sao hiện nay thấy tất cả phật-độ lại có nhiều sự không đồng, những là :

Thế-giới, chúng-sanh-giới, thuyết-pháp, điều-phục, thọ-lượng, quang-minh, thần-thông, chúng-hội, giáo-nghĩa, pháp-trụ v.v... đều sai khác nhau.

Không có vị nào chẳng đủ tất cả phật-pháp mà được thành vô-thượng bồ-đề ?

Hiền-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Thưa ngài ! Pháp thường vậy

Pháp-Vương pháp duy-nhất

Tất cả chư Như-Lai

Một đạo mà giải-thoát.

Thân của tất cả Phật chỉ là một pháp-thân

Nhứt-tâ, nhứt trí-huệ

Lực vô-úy cũng vậy.

Như trước đến bồ-đề

Bao nhiêu tâm hồi hướng

Ðược cõi nước như vậy

Chúng-hội và thuyết-pháp.

Tất cả các cõi Phật

Trang-nghiêm đều viên-mãn

Tùy chúng-sanh hạnh khác

Thấy chẳng đồng như vậy

Cõi Phật cùng thân Phật

Chúng hộingôn thuyết

Các phật-pháp như vậy

Chúng-sanh chẳng thấy được.

Tâm ý đã thanh-tịnh

Hạnh-nguyện đều đầy đủ

Người sáng suốt như vậy

Mới được thấy nơi đây.

Tùy chúng-sanh tâm thích

Và cùng sức nghiệp-quả

Thấy sai khác như vậy

Do oai thần của Phật.

Cõi Phật vô-sai-biệt

Không ghét cũng không thương

Chỉ tùy tâm chúng-sanh

Thấy có khác như vậy.

Do đây nơi thế-giới

Chỗ thấy đều sai khác

Chẳng phải chư Như-Lai

Bực Ðại-Tiên có lỗi.

Tất cả các thế-giới

Người đáng được giáo-hóa

Thường được thấy Thế-Tôn

Pháp chư Phật như vậy.

Lúc đó chư Bồ-Tát nói với Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Chúng tôi đã tự nói chỗ hiểu biết của mình rồi. Xin ngài dùng diệu-biện-tài diễn sướng những cảnh-giới của Như-Lai:

Những gì là cảnh-giới của Phật ? Những gì là nhơn của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự nhập vào của cảnh-giới Phật ? Những gì là trí của cảnh-giới Phật ? Những gì là pháp của cảnh-giới Phật ? Những gì là ngôn-thuyết của cảnh-giới Phật ? những gì là sự hiểu biết của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự chứng của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự hiện ở của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự rộng lớn của cảnh-giới Phật ?

Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :

Như-Lai cảnh-giới sâu

Lượng đó khắp hư-không

Tất cả chúng-sanh vào

thật không chỗ nhập.

Như-Lai cảnh-giới sâu

Bao nhiêu nhơn thắng diệu

Ức kiếp thường tuyên nói

Cũng lại chẳng thể hết.

Tùy tâm trí huệ mình

Khuyến tấn đều khiến lợi

Ðộ chúng-sanh như vậy

Là cảnh-giới chư Phật.

Những cõi nước thế-gian

Tất cả đều theo vào

Trí thân không có sắc

Chẳng phải kia thấy được.

Chư Phật trí tự-tại

Tam-thế không chướng ngại

Cảnh-giới huệ như vậy

Bình-đẳng như hư-không.

Pháp-giới chúng-sanh-giới

Rốt ráo không sai khác

Tất cả đều rõ biết

Ðây là cảnh-giới Phật.

Trong tất cả thế-giới

Bao nhiêu những âm-thinh

Phật-trí đều tùy rõ

Cũng không có phân-biệt.

Chẳng phải thức biết được

Chẳng phải tâm cảnh-giới

Tánh đó vốn thanh-tịnh

Khai-thị các quần-sanh.

Chẳng nghiệp chẳng phiền-não

Không vật không trụ-xứ

Không chiếu không sở-hành

Bình-đẳng đi thế-gian.

Tất cả tâm chúng-sanh

Khắp ở trong ba thời

Như-Lai nơi một niệm

Tất cả đều rõ thấu.

Lúc bấy giờ trong cõi Ta-Bà này, tất cả chúng-sanh, bao nhiêu pháp sai-biệt, nghiệp sai-biệt, thế-gian sai-biệt, thân sai-biệt, căn sai-biệt, thọ sanh sai-biệt, trì-giới quả sai-biệt, phạm-giới quả sai-biệt, quốc-độ quả sai-biệt, do thần-lực của Phật thảy đều hiện rõ.

Phương đông, trăm ngàn ức na-do-tha vô-số, vô-lượng, vô-biên, vô-đẳng, bất-khả-số, bất-khả-xưng, bất-khả-tư, bất-khả-lượng, bất-khả-thuyết, tận pháp-giới hư-không-giới, trong tất cả thế-giới, bao nhiêu chúng-sanh pháp sai-biệt, đều do thần-lực của Phật mà hiển hiện rõ ràng.

Những phương Nam, Tây, Bắc, Ðông-Bắc, Ðông-Nam, Tây-Nam, Tây-Bắc, thượng, hạ, cũng đều như vậy.

********************

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19839)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28949)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20680)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19413)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30482)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36415)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33201)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35539)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20967)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21910)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25252)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25785)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31236)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18552)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25133)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23760)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28924)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20852)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31444)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25542)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29717)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22512)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25706)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23268)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25732)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23717)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40596)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23346)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22442)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22083)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23499)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16956)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23281)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24303)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41089)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18975)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20472)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27720)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38112)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34059)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36783)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23987)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29171)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60129)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27597)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68715)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24509)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24474)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22680)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26348)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26521)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20812)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20047)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27542)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46410)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53571)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23593)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25556)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29247)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant