Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Phẩm Tu-Di sơn-đảnh kệ tán

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13899)
14. Phẩm Tu-Di sơn-đảnh kệ tán

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM TU DI SƠN ÐẢNH KỆ TÁN
THỨ MƯỜI BỐN

Lúc bấy giờ, do thần-lực của đức Phật, từ ngoài trăm phật-sát vi-trần-số quốc-độ, mười-phương đều có một đại Bồ-Tát, mỗi vị đều cùng một phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng vân tập đến. Mười đại Bồ-Tát là : Pháp-Huệ Bồ-Tát, Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, Thắng-Huệ Bồ-Tát, Công-Ðức-Huệ Bồ-Tát, Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát, Thiện-Huệ Bồ-Tát, Trí-Huệ Bồ-Tát, Chơn-Thiệt-Huệ Bồ-Tát, Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát, Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát. Cõi nước của các ngài theo thứ-tự là : Nhơn-Ðà-La-Hoa thế-giới, Ba-Ðầu-Ma-Hoa thế-giới, Bửu-Hoa thế-giới, Ưu-Bát-La-Hoa thế-giới, Kim-Cang-Hoa thế-giới, Diệu-Hương-Hoa thế-giới, Duyệt-Ý-Hoa thế-giới, A-Lô-Hoa thế-giới, Na-La-Ðà-Hoa thế-giới, Hư-Không-Hoa thế-giới. Chư Phật ngự trị nơi đó theo thứ tự là : Thù-Ðặc-Nguyệt-Phật, Vô-Tận-Nguyệt Phật, Bất-Ðộng-Nguyệt Phật, Phong-Nguyệt Phật, Thủy-Nguyệt Phật, Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Nguyệt Phật, Tinh-Tú-Nguyệt Phật, Thanh-Tịnh-Nguyệt Phật, Minh-Liễu-Nguyệt Phật.

Chư Bồ-Tát này đến đảnh-lễ chơn Phật, rồi tùy phương đến, đều riêng hóa hiện tòa sư-tử Tỳ-lô-giá-na-tạng mà ngồi kiết-già trên đó.

Như chư Bồ-Tát vân tập đến đảnh núi Tu-Di nơi thế-giới này, thập-phương thế-giới cũng đều như thế cả, đến danh hiệu, quốc-độ và chư Phật cũng đồng.

Lúc đó đức Thế-Tôn, từ nơi các ngón của hai chưn phóng trăm ngàn ức quang-minh màu đẹp chiếu khắp trong cung của Ðế-Thích ở mười phương thế-giới, Phật và đại-chúng đều hiển hiện cả.

Pháp Huệ Bồ-Tát thừa oai-thần của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Phật phóng tịnh quang-minh

Thấy khắp tất cả Phật

Ðảnh núi Tu-Di-Vương

Ở trong điện Diệu-Thắng.

Tất cả Thiên-Ðế-Thích

Thỉnh Phật vào cung-điện

Ðều nói mười kệ hay

Ca ngợi chư Như-Lai.

Trong các đại hội ấy

Bao nhiêu chúng Bồ-Tát

Ðều từ mười-phương đến

Hóa tòa mà an-tọa.

Bồ-Tát trong hội đó

Danh hiệu đồng chúng tôi,

Những cõi từ đó đến

Danh-tự cũng vẫn đồng;

Bổn-quốc chư Như-Lai

Hồng-danh đều cũng đồng,

Bồ-Tát nơi bổn Phật

Tịnh tu hạnh vô-thượng.

Ðại chúng nên quan-sát

Như-Lai tự-tại-lực

Tất cả Diêm-Phù-Ðề

Ðều nói Phật tại đấy.

Chúng tinh-tấn nay thấy Phật

Trụ nơi đảnh Tu-Di

Thập-phương cũng như vậy

Như-Lai tự-tại-lực.

Trong mỗi mỗi thế-giới

Phát tâm cầu phật-đạo

Nương nơi nguyện như vậy

Tu tập hạnh bồ-đề.

Phật dùng nhiều thân hình

Du hành khắp thế-gian

Pháp-giới không chướng ngại

Không ai trắc lượng được.

Huệ-quang hằng chiếu khắp

Ðời tối đều trừ diệt,

Tất cả không sánh bằng

Thế nào lường biết được !

Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, thừa oai-lực của đức Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Giả-sử trăm ngàn kiếp

Thường thấy đức Như-Lai

Chẳng y chơn-thật nghĩa

Mà quán đấng Cùu-Thế,

Người này chấp lấy tướng

Thêm lớn lưới mê lầm

Giam trói ngục sanh tử

Ðui mù, chẳng thấy Phật.

Quan-sát nơi các pháp

Ðều không có tự-tánh

Tướng nó, vốn sanh-diệt

Chỉ là danh thuyết giả.

Tất cả pháp vô-sanh

Tất cả pháp vô-diệt

Nếu hiểu được như vậy

Chư Phật thường hiện tiền.

Pháp-tánh vốn không tịch

Vô-thủ, cũng vô-kiến

Tánh không, tức là Phật

Chẳng thể nghĩ lường được.

Nếu biết tất cả pháp

Thể tánh đều như vậy

Người này thời chẳng bị

Phiền-não làm nhiễm trước.

Phàm phu thấy các pháp

Chỉ chuyển theo tướng giả

Chẳng rõ pháp vô-tướng

Do đây chẳng thấy Phật.

Ðức Phật lìa ba thời

Các tướng đều đầy đủ

Trụ nơi vô-sở-trụ

Cùng khắp mà bất-động.

Tôi quán tất cả pháp

Thảy đều được rõ ràng

Nay thấy đức Như-Lai

Quyết-định không nghi ngờ.

Pháp-Huệ trước đã nói

Như-Lai chơn-thiệt tánh,

Tôi từ đó rõ biết

Bồ-đề khó nghĩ bàn.

Thắng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Như-Lai đại trí-huệ

Hi-hữu không sánh bằng

Tất cả những thế-gian

Tư-duy chẳng đến được.

Phàm-phu vọng quan-sát

Chấp tướng chẳng đúng lý

Phật lìa tất cả tướng

Chẳng phải họ biết được.

Kẻ vô-tri mê lầm

Vọng chấp tướng ngũ-uẩn

Chẳng biết chơn-tánh kia

Người này chẳng thấy Phật.

Rõ biết tất cả pháp

Ðều không có tự-tánh

Hiểu pháp-tánh như vậy

Thời thấy Lô-Xá-Na.

Vì do tiền-ngũ-uẩn

Có hậu-uẩn tương-tục

Rõ biết nơi tánh này

Thấy Phật khó nghĩ bàn.

Ví như báu trong tối

Không đèn thời chẳng thấy

Phật-pháp không người nói

Dầu huệ chẳng biết được.

Cũng như mắt bị lòa

Chẳng thấy màu xinh đẹp

Như vậy tâm bất-tịnh

Chẳng thấy các phật-pháp.

Lại như mặt trời sáng

Kẻ mù không thấy được

Tâm không có trí-huệ

Trọn chẳng thấy chư Phật.

Nếu chữa hết bịnh lòa

Bỏ lìa lòng tưởng sắc

Chẳng thấy nơi các pháp

Thời thấy được Như-Lai.

Nhứt-Thiết-Huệ đã nói

Chư Phật Bồ-Ðề pháp

Tôi nghe lời ngài nói

Ðược thấy Lô-Xá-Na.

Công-Ðức-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :

Các pháp không chơn-thật

Vọng chấp là chơn-thật

Cho nên các phàm-phu

Luân-hồi ngục sanh-tử.

Nơi ngôn từ thuyết pháp

Tiểu trí vọng phân-biệt

Vì thế sanh chướng-ngại

Chẳng rõ được tự-tâm.

Chẳng rõ được tự-tâm

Ðâu biết được chánh-đạo

Họ do huệ điên-đảo

Thêm lớn mọi điều ác.

Chẳng thấy các pháp không

Hằng thọ khổ sanh-tử

Người này chưa có được

Pháp-nhãn thanh-tịnh vậy.

Xưa kia tôi thọ khổ

Vì tôi chẳng thấy Phật,

Nên phải tịnh pháp-nhãn

Xem kia chỗ đáng thấy.

Nếu được thấy nơi Phật

Thời tâm không chấp lấy

Người này thời thấy được

Pháp của Phật đã biết.

Nếu thấy Phật chơn-pháp

Thời gọi bực đại-trí

Người này có tịnh-nhãn

Hay quan-sát thế-gian.

Không thấy chính là thấy

Hay thấy tất cả pháp

Nơi pháp nếu có thấy

Ðây thời là không thấy.

Tất cả các pháp-tánh

Không sanh cũng không diệt

Lạ thay đấng Ðạo-Sư

Tự-giác hay giác-tha.

Ngài Thắng-Huệ đã nói

Pháp của Như-Lai ngộ

Chúng tôi nghe Ngài nói

Biết được Phật chơn-tánh.

Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nếu trụ nơi phân-biệt

Thời hư thanh-tịnh nhãn

Thêm ngu-si, tà-kiến

Trọn chẳng thấy được Phật.

Nếu rõ được tà-pháp

Như thiệt chẳng điên-đảo,

Biết vọng vốn tự chơn

Thấy Phật thời thanh-tịnh.

Có thấy, thời là nhơ

Ðây thời chưa phải thấy

Xa lìa các kiến chấp

Như vậy mới thấy Phật.

Pháp ngôn-ngữ thế-gian

Chúng-sanh vọng phân-biệt

Biết thế đều vô-sanh

Mới là thấy thế-gian.

Nếu thấy 'thấy thế-gian'

'Thấy' là tướng thế-gian

Như thiệt đồng không khác

Ðây gọi người chơn-kiến.

Nếu thấy đồng không khác

Nơi vật chẳng phân-biệt

Thấy này lìa phiền-não

Vô-lậu được tự-tại.

Chỗ chư Phật khai thị

Tất cả pháp phân-biệt

Ðây đều chẳng thể được

Vì pháp-tánh thanh-tịnh.

Pháp-tánh vốn thanh-tịnh

Vô-tướng như hư-không

Tất cả không năng thuyết

Người trí quán như vậy.

Xa lìa nơi pháp-tưởng

Chẳng thích tất cả pháp

Ðây cũng không chỗ tu

Thấy được Ðại-Mâu-Ni.

Như ngài Ðức-Huệ nói

Ðây gọi là thấy Phật;

Chỗ có tất cả hạnh

Thể-tánh đều tịch-diệt.

Lúc đó Thiện-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Hi-hữu đại dũng-kiện

Vô-lượng chư Như-Lai

Ly-cấu tâm giải-thoát

Tự độ hay độ người.

Tôi thấy Thế-gian-Ðăng

Như thật chẳng điên-đảo

Như trong vô-lượng kiếp

Bực đủ trí chỗ thấy.

Tất cả hạnh phàm-phu

Ðều mau về diệt tận

Tánh nó như hư-không

Nên nói là vô-tận.

Người trí nói vô-tận

Ðây cũng không chỗ nói.

Vì tự-tánh vô-tận

Ðược có nan-tư tận.

Trong chỗ nói vô-tận

Không chúng-sanh được có

Biết chúng-tánh như vậy

Thời thấy Ðại-Danh-Xưng.

Không thấy nói là thấy

Vô-sanh nói chúng-sanh

Hoặc thấy, hoặc chúng-sanh

Rõ biết không thể-tánh.

Năng-kiến cùng sở-kiến

Kiến-giả đều khiển trừ,

Chẳng hoại nơi chơn-pháp

Người này rõ biết Phật.

Nếu người rõ biết Phật

Và pháp của Phật nói

Thời hay chiếu thế-gian

Như Phật Lô-Giá-Na.

Chánh-giác khéo khai thị

Ðạo một pháp thanh-tịnh,

Ðại-Sĩ tinh-tấn huệ

Diễn nói vô-lượng pháp.

Hoặc có hoặc không có

Tưởng niệm này đều trừ

Như thế thấy được Phật

An-trụ nơi thiệt-tế.

Lúc đó Trí-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Tôi nghe pháp tối-thắng

Liền sanh trí-huệ quang

Chiếu khắp mười-phương cõi

Ðều thấy tất cả Phật.

Trong đây không chút vật

Chỉ có danh-tự giả

Nếu chấp có ngã nhơn

Thời là vào đường hiểm.

Những phàm-phu chấp trước

Chấp thân là thiệt có

Phật chẳng phải sở-thủ

Họ trọn chẳng thấy được.

Người này không huệ-nhãn

Chẳng thể thấy được Phật

Ở trong vô-lượng kiếp

Lưu chuyển biển sanh-tử.

Hữu-tránh nói sanh-tử

Vô-tránh là niết-bàn

Sanh-tử và niết-bàn

Cả hai chẳng nói được.

Nếu theo danh-tự giả

Chấp lấy hai pháp này

Người này không đúng thật

Chẳng biết Phật diệu-đạo.

Nếu móng tưởng như vầy :

'Ðây Phật, đây tối-thắng'

Ðiên-đảo chẳng phải thật

Chẳng thấy được Chánh-giác.

Biết được thật thể này

Tướng chơn-như tịch-diệt

Thời thấy đấng Chánh-Giác

Vượt khỏi đường ngữ-ngôn.

Ngôn ngữ nói các pháp

Chẳng hiển được thiệt-tướng

Bình-đẳng mới thấy được

Như pháp, Phật cũng vậy.

Thời quá-khứ chư Phật

Vị-lai và hiện-tại

Dứt hẳn gốc phân-biệt

Thế nên gọi là Phật.

Chơn-Thật-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Thà thọ khổ địa-ngục

Ðược nghe hồng-danh Phật

Chẳng thích vô-lượng vui

Mà chẳng nghe danh Phật.

Sở-dĩ nơi thời xưa

Chịu khổ vô-số kiếp

Lưu chuyển trong sanh-tử

Vì chẳng nghe danh Phật.

Với pháp chẳng điên-đảo

hiện chứng như thật

Lìa các tướng hòa hiệp

Gọi là Vô-Thượng-Giác.

Hiện chẳng phải hòa hiệp

Khứ, lai cũng như vậy

Tất cả pháp vô-tướng

Ðây là chơn-thể Phật.

Nếu quán được như vậy

Các pháp nghĩa thậm-thâm

Thời thấy tướng chơn thật

Pháp-thân của chư Phật.

Nơi thật thấy chơn-thật

Chẳng thật thấy chẳng thật

Hiểu rốt ráo như vậy

Cho nên gọi là Phật.

Phật-pháp chẳng giác được

Rõ đây gọi 'giác pháp'

Chư Phật tu như vậy

Một pháp bất-khả-đắc.

Biết do một nên nhiều

Biết do nhiều nên một

Các pháp không chỗ tựa

Chỉ do hòa hiệp khởi.

Không năng-tác, sở-tác

Chỉ từ nghiệp tưởng sanh

Tại sao biết như vậy

Vì khác đây không có.

Tất cả pháp vô-trụ

Ðịnh-xứ bất-khả-đắc

Chư Phật trụ nơi đây

Rốt ráo không dao động.

Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :

Ðấng đại-thừa vô-thượng

Xa lìa tưởng chúng-sanh

Không có ai hơn được

Nên hiệu là Vô-Thượng.

Chỗ chư Phật đã được

Vô-tác, vô-phân-biệt

Thô-thần-thông vô-sở-hữu

Vi-tế cũng như vậy.

Cảnh chư Phật sở-hành

Trong đó không có số

Là chơn-pháp của Phật.

Như-Lai quang chiếu khắp

Diệt trừ những tối-tăm

Quang này chẳng có chiếu

Cũng chẳng phải không chiếu.

Nơi pháp không chỗ chấp

Không niệm cũng không nhiễm

Không trụ không xứ sở

Chẳng hoại nơi pháp-tánh.

Trong đây không có hai

Cũng lại không có một

Bực đại-trí thấy đúng

Kheó an-trụ thật lý.

Trong không, không có hai

Không hai cũng như vậy

Tam-giới tất cả không

Là chỗ thấy chư Phật.

Phàm-phu không hay biết

Phật khiến trụ chánh-pháp

Các pháp vô-sở-trụ

Ngộ đây thấy tự thân.

Chẳng thân mà nói thân

Chẳng khởi mà hiện khởi

Không thân cũng không thấy

Là Phật-thân vô-thượng.

Như ngài Thật-Huệ nói

Chư Phật diệu pháp-tánh

Nếu người nghe pháp này

Sẽ được thanh-tịnh-nhãn.

Lúc đó Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Vĩ-đại ! quang-minh lớn

Bực vô-thượng dũng kiện

Vì lợi ích quần-sanh

xuất hiện thế-gian.

Phật dùng tâm đại-bi

Quan-sát khắp chúng-sanh

Thấy ở trong ba cõi

Luân-hồi thọ nhiều khổ.

Chỉ trừ đấng Chánh-Giác

Ðấng Ðạo-Sư đủ sức

Tất cả các Trời Người

Không ai cứu hộ được.

Nếu chư Phật Bồ-Tát

Chẳng xuất hiện thế-gian

Thời không một chúng-sanh

Có thể được an-lạc.

Như-Lai đẳng-chánh-giác

Và các chúng Thánh Hiền

Xuất hiện ở thế-gian

Cho chúng-sanh được vui.

Nếu ai thấy Như-Lai

Vì được lợi hành lớn

Nghe hiệu Phật sanh tin

Thời là tháp thế-gian.

Chúng tôi thấy Như-Lai

Vì được lợi ích lớn

Nghe diệu-pháp như vậy

Ðều sẽ thành Phật-đạo.

Chư Bồ-Tát quá-khứ

Do thần-lực của Phật

Ðược huệ-nhãn thanh-tịnh

Rõ cảnh-giới chư Phật.

Nay thấy Lô-Xá-Na

Càng thêm thanh-tịnh-tính

Phật-trí không ngằn mé

Diễn thuyết chẳng thể hết.

Thắng-Huệ Bồ-Tát thảy

Và tôi Kiên-Cố-Huệ

Trong vô-số ức kiếp

Cũng nói chẳng thể hết.

 

************************

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31358)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26237)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27550)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27942)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26741)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31254)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20293)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22979)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30094)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21606)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20291)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22696)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20796)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30362)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28822)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34770)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44254)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35550)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22570)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21398)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20715)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24785)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37949)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19091)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19357)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21855)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20897)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29541)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35189)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28849)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32629)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26254)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28959)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43180)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34988)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43982)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37933)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21350)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43049)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49039)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39881)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53816)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36842)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40835)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49753)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47349)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27770)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27043)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27247)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24084)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20872)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34338)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22505)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25145)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25876)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22978)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22482)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21772)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23346)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21202)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant