Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trang 1

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 19813)
Trang 1

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM HIỀN THỦ
THỨ MƯỜI HAI

Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát nói hạnh thanh-tịnh không trược loạn đại công-đức rồi, vì muốn hiển-thị công-đức của bồ-đề tâm, nên nói kệ hỏi Hiền-Thủ Bồ-Tát :

Nay tôi đã vì chư Bồ-Tát

Nói hạnh thanh-tịnh Phật đã tu

Ngài cũng nên ở trong hội này

Diễn đạt tu hành công-đức lớn.

Lúc đó Hiền-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp :

Lành thay xin ngài lóng nghe đây

Những công-đức đó chẳng lường được

Nay tôi tùy sức, nói ít phần

Như một giọt nước trong biển lớn.

Nếu có Bồ-Tát sơ phát tâm

Thệ cầu sẽ chứng Phật bồ-đề

Công-đức của kia không ngằn mé

Không thể cân lường, chẳng gì sánh.

Huống là vô-lượng vô-biên kiếp

Tu đủ địa, độ, các công-đức

Mười phương tất cả chư Như-Lai

Ðều cùng ngợi khen chẳng hết được.

Vô-biên công-đức lớn như vậy

Nay tôi trong đây nói ít phần

Ví như chân chim vạch không gian

Và như hạt bụi trên đại địa.

Bồ-Tát phát tâm cầu bồ-đề

Chẳng phải không nhơn, không có duyên

Với Phật, Pháp, Tăng khởi lòng tin

Do đây mà sanh tâm rộng lớn.

Chẳng cầu ngũ dục và ngôi vua

Chẳng mong giàu, vui, danh tiếng lớn

Chỉ vì dứt hẳn khổ chúng-sanh

Lợi ích thế-gian mà phát ý.

Thường muốn lợi lạc các chúng-sanh

Trang-nghiêm cõi nước, cúng-dường Phật

Thọ trì chánh-pháp, tu trí-huệ

Vì chứng bồ-đề mà phát tâm.

Thâm tâm, tin, hiểu thường thanh-tịnh

Cung kính, tôn trọng tất cả Phật

Nơi Pháp và Tăng cũng như vậy

Chí-thành cúng-dường mà phát tâm.

Thâm tín nơi Phật và phật-pháp

Cũng tin phật-tử đạo tu hành

Và tin vô-thượng đại bồ-đề

Do đây Bồ-Tát phát tâm nguyện.

Tin là đạo nguồn, mẹ công-đức

Nuôi lớn tất cả những pháp lành

Dứt trừ lưới nghi, khỏi vòng ái

Khai thị niết-bàn, đạo vô-thượng.

Tin không nhơ bợn, lòng thanh-tịnh

Là cội cung kính, trừ kiêu mạn

Cũng là pháp-tạng đệ-nhứt-tài

Là tay thanh-tịnh thọ thiện hạnh.

Tin hay ban cho, không bỏn-sẻn

Tin hay hoan-hỉ vào phật-pháp

Tin hay thêm lớn trí, công-đức

Tin quyết-định được bực Như-Lai.

Tin khiến lục-căn sạch, sáng, lẹ

Tin sức kiên-cố không bị hư

Tin hay dứt hẳn cội phiền-não

Tin hay chuyển hướng Phật công-đức.

Tin nơi cảnh-giới không chấp trước

Xa lìa các nạn, được vô-nạn

Tin hay vượt khỏi các đường ma

Thị-hiện đạo giải-thoát vô-thượng.

Tin là giống công-đức không hư

Tin hay sanh trưởng cây bồ-đề

Tin hay thêm lớn trí tối-thắng

Tin hay thị-hiện tất cả Phật.

Cứ theo công-hạnh nói thứ đệ

Tin là hơn hết, rất khó được

Ví như trong tất cả thế-gian

Mà có như ý diệu-bửu-châu.

Nếu thường tin thờ nơi chư Phật

Thời hay trì giới và tu-học;

Nếu thường trì-giới và tu học

Thời hay đầy đủ các công-đức.

Giới hay khai phát gốc bồ-đề

Học là siêng tu bực công-đức,

Nơi giới và học thường thuận làm

Thời được chư Phật luôn khen ngợi.

Nếu thường tin phụng nơi chư Phật

Thời hay trần-thiết cúng-dường lớn

Nếu hay trần-thiết cúng-dường lớn

Người này tin Phật bất-tư-nghì.

Nếu thường tin phụng nơi tôn-pháp

Thời nghe phật-pháp không nhàm đủ

Nếu nghe phật-pháp không nhàm đủ

Người này tin pháp bất-tư-nghì.

Nếu thường tin phụng thanh-tịnh tăng

Thời được tín tâm bất-thối-chuyển

Nếu được tín-tâm bất-thối-chuyển

Người này tín-lực không dao-động.

Nếu được tín-lực không dao-động

Thời được lục-căn sạch sáng-lẹ

Nếu được lục-căn sạch sáng-lẹ

Thời hay xa lìa ác-tri-thức.

Nếu hay xa lìa ác-tri-thức

Thời được gần gũi thiện-tri-thức

Nếu được gần gũi thiện-tri-thức

Thời hay tu tập quảng-đại-thiện.

Nếu hay tu tập quảng-đại-thiện

Người này được thành nhơn-lực lớn

Nếu người được thành nhơn-lực lớn

Thời được thù-thắng quyết-định giải.

Nếu được thù-thắng quyết-định giải

Thời được chư Phật thường hộ-niệm

Nếu được chư Phật thường hộ-niệm

Thời hay phát khởi bồ-đề-tâm

Nếu hay phát khởi bồ-đề-tâm

Thời hay siêng tu Phật công-đức

Nếu hay siêng tu Phật công-đức

Thời được sanh vào nhà của Phật.

Nếu được sanh ở nhà chư Phật

Thời khéo tu-hành phương-tiện lớn

Nếu khéo tu-hành phương-tiện lớn

Thời tâm tin ưa được thanh-tịnh.

Nếu được tâm tin ưa thanh-tịnh

Thời được tâm tăng-thượng tối-thắng

Nếu được tâm tăng-thượng tối-thắng

Thời thường tu tập ba-la-mật

Nếu thường tu tập ba-la-mật

Thời được trọn đủ pháp đại-thừa

Nếu được trọn đủ pháp đại-thừa

Thời hay đúng pháp cúng-dường Phật.

Nếu hay đúng pháp cúng-dường Phật

Thời được tâm niệm Phật bất-động

Nếu được tâm niệm Phật bất-động

Thời thường thấy được vô-lượng Phật.

Nếu thường thấy được vô-lượng Phật

Thời thấy Như-Lai thể thường-trụ

Nếu thấy Như-Lai thể thường-trụ

Thời biết được pháp trọn bất-diệt.

Nếu biết được pháp trọn bất-diệt

Thời được biện-tài vô-chướng-ngại

Nếu được biện-tài vô-chướng-ngại

Thời hay khai diễn vô-biên pháp.

Nếu hay khai diễn vô-biên pháp

Thời hay từ-mẫn độ chúng-sanh

Nếu hay từ-mẫn độ chúng-sanh

Thời được tâm đại-bi kiên-cố.

Nếu được tâm đại-bi kiên-cố

Thời hay mến ưa pháp thâm-diệu

Nếu hay mến ưa pháp thâm-diệu

Thời hay xa lìa lỗi hữu-vi.

Nếu hay xa lìa lỗi hữu-vi

Thời lìa kiêu-mạn và phóng-dật

Nếu lìa kiêu-mạn và phóng-dật

Thời hay kiêm-lợi tất cả chúng.

Nếu hay kiêm-lợi tất cả chúng

Thời ở sanh-tử không mỏi nhàm

Nếu ở sanh-tử không mỏi nhàm

Thời được dũng kiện không ai hơn.

Nếu được dũng kiện không ai hơn

Thời hay phát khởi đại thần-thông

Nếu hay phát khởi đại thần-thông

Thởi biết hạnh tất cả chúng-sanh.

Nếu biết hạnh tất cả chúng-sanh

Thời hay thành-tựu các quần-sanh

Nếu hay thành-tựu các quần-sanh

Thời được trí khéo nhiếp chúng-sanh.

Nếu được trí khéo nhiếp chúng-sanh

Thời hay thành tựu pháp tứ-nhiếp

Nếu hay thành tựu pháp tứ-nhiếp

Thời cho chúng-sanh lợi vô-hạn

Nếu cho chúng-sanh lợi vô-hạn

Thời đủ phương-tiện trí tối-thắng

Nếu đủ phương-tiện trí tối-thắng

Thời trụ đạo dũng-mãnh vô-thượng.

Nếu trụ đạo dũng-mãnh vô-thượng

Thời hay xô dẹp những ma-lực

Nếu hay xô dẹp những ma-lực

Thời hay vượt khỏi cảnh tứ-ma.

Nếu hay vượt khỏi cảnh tứ-ma

Thời được đến nơi bực bất-thối

Nếu được đến nơi bực bất-thối

Thời được pháp-nhẫn vô-sanh lớn.

Nếu được pháp-nhẫn vô-sanh lớn

Thời được chư Phật thọ-ký cho

Nếu được chư Phật thọ-ký cho

Thời tất cả Phật hiện ra trước.

Nếu được chư Phật hiện ra trước

Thời rõ mật-dụng thần-thông lớn

Nếu rõ mật-dụng thần-thông lớn

Thời được chư Phật thường nhớ tưởng.

Nếu được chư Phật thường nhớ tưởng

Thời dùng Phật-đức tự trang-nghiêm

Nếu dùng Phật-đức tự trang-nghiêm

Thời được thân đoan-nghiêm diệu-phước.

Nếu được thân đoan-nghiêm diệu-phước

Thời thân chói sáng dường núi vàng

Nếu thân chói sáng dường núi vàng

Thời đủ ba mươi hai tướng hảo.

Nếu đủ ba mươi hai tướng hảo

Tám mươi tùy hảo đồng nghiêm-sức

Nếu đủ tùy hảo đồng nghiêm-sức

Thời thân sáng chói vô-hạn-lượng.

Nếu thân sáng chói vô-hạn-lượng

Thời được quang-minh bất-tư-nghị

Nếu được quang-minh bất-tư-nghị

Quang-minh này hiện những liên-hoa.

Những quang-minh từ liên-hoa hiện

Có vô-lượng Phật ngự trên liên-hoa

Thị-hiện mười phương đều khắp cả

Ðều hay điều-phục các chúng-sanh.

Nếu hay điều-phục các chúng-sanh

Thời hiện vô-lượng thần-thông-lực.

Nếu hiện vô-lượng thần-thông-lực

Thời trụ bất-tư-nghị cõi nước,

Thời diễn thuyết bất-tư-nghị pháp

Khiến bất-tư-nghị chúng hoan-hỉ.

Thời dùng sức trí-huệ, biện-tài

Tùy tâm chúng-sanh mà giáo-hóa.

Nếu dùng sức trí-huệ, biện tài

Tùy tâm chúng-sanh mà giáo-hóa

Thời dùng trí-huệ làm tiên-đạo

Thân, ngữ, ý, thường không lầm lỗi.

Nếu dùng trí-huệ làm tiên đạo

Thân ngữ ý thường không lầm lỗi

Thời nguyện-lực tất được tự-tại

Tùy theo các loài mà hiện thân.

Nếu nguyện-lực ấy được tự-tại

Tùy theo các loài mà hiện thân

Thời lúc tùy chúng, mà thuyết-pháp

Âm-thinh tùy loại, khó nghĩ bàn

Thời với tâm tất cả chúng-sanh

Một niệm biết cả không thừa sót.

Nếu với tâm tất cả chúng-sanh

Một niệm biết cả không thừa sót.

Thời biết phiền-não không từ đâu

Trọn không còn chìm trong sanh-tử.

Nếu biết phiền-não không từ đâu

Trọn không còn chìm trong sanh-tử

Thời được thân công-đức pháp-tánh

Dùng pháp oai-lực hiện thế-gian.

Nếu được thân pháp-tánh công-đức

Dùng pháp oai-lực hiện thế-gian

Thời được thập-địa, mười tự-tại

Tu-hành các độ, thắng giải-thoát

Thời được quán-đảnh đại thần-thông

Trụ nơi tối-thắng các tam-muội.

Nếu được quán-đảnh đại-thần-thông

Trụ nơi tối thắng các tam-muộI

Thời khắp mười-phương chỗ chư Phật

Ðáng thọ quán-đảnh được thắng-vị

Thời được tất cả Phật mười phương

Tay lấy cam-lộ rưới trên đảnh

Thời thân đầy khắp như hư-không

An-trụ bất-động khắp mười-phương.

Nếu thân đầy khắp như hư-không

An-trụ bất-động khắp mười-phương

Thời chỗ sở-hành không ai bằng

Chư thiên, người đời chẳng biết được.

Bồ-Tát siêng tự-tại hạnh đại-bi

Nguyện độ tất cả đều trọn vẹn

Nếu ai nghe thấy mà cúng-dường

Ðều làm cho họ được an-lạc.

Thần-lực của chư Bồ-Tát kia

Pháp-nhãn toàn vẹn không thuyết giảm

Những đạo diệu-hạnh thập thiện thảy

Thắng bửu vô-lượng đều khiến hiện.

Như báu kim-cang trong đại-hải

Do oai-lực này sanh các báu;

Không tăng, không giảm, cũng vô-tận

Công-đức của Bồ-Tát cũng vậy.

Hoặc có quốc-độ không có Phật

Bồ-Tát nơi đó hiện thành Phật,

Nếu có quốc-độ chẳng biết Pháp

Nơi đó Bồ-Tát thuyết diệu-pháp.

Không có phân-biệt, không công-dụng

Trong khoảng một niệm khắp mười-phương

Như mặt nguyệt sáng chiếu khắp nơi

Vô-lượng phương-tiện độ quần-sanh.

Ở trong mười-phương các thế-giới

Niệm niệm thị-hiện thành phật-đạo

Chuyển chánh pháp-luân vào tịch-diệt

Nhẫn đến xá-lợi phân bố rộng.

Hoặc hiện Thanh-Văn cùng Ðộc-Giác

Hoặc hiện thành Phật khắp trang-nghiêm

Như vậy khai-diễn pháp ba thừa

Rộng độ chúng-sanh vô-lượng kiếp.

Hoặc hiện thân đồng-nam đồng-nữ

Trời rồng nhẫn đến a-tu-la,

Cùng với ma-hầu-la-già thảy

Tùy chúng sở-thích đều khiến thấy.

Chúng-sanh hình tướng đều chẳng đồng

Hành-nghiệp, âm-thinh cũng vô-lượng

Tất cả như vậy đều hiện được

Hải-ấn tam-muội oai-thần lực.

Nghiêm-tịnh bất-tư-nghị quốc-độ

Cúng-dường tất cả chư Như-Lai

Phóng-đại quang-minh vô-lượng-biên

Ðộ thoát chúng-sanh cũng vô-hạn.

Trí-huệ tự-tại, bất-tư-nghị

Ngôn-từ thuyết-pháp không chướng ngại

Thí, giới, nhẫn, tấn và thiền-định

Trí-huệ, phương-tiện, thần-thông thảy.

Tất cả như vậy đều tự-tại

Do Phật hoa-nghiêm tam-muội lực.

Trong một vi-trần nhập tam-muộI

Thành-tựu vi-trần tất cả định,

Mà vi-trần kia cũng không thêm

Nơi một hiện khắp vô-biên cõi.

Trong một trần kia, nhiều quốc-độ

Hoặc là có Phật, hoặc không Phật,

Hoặc là tạp nhiễm, hoặc thanh-tịnh

Hoặc cõi rộng lớn, hoặc hẹp nhỏ

Hoặc có cõi thành, hoặc là hoại

Hoặc cõi chánh-trụ, hoặc bàng-trụ,

Hoặc như ánh-nắng giữa đồng-trống

Hoặc như lưới Thiên-Ðế trên trời.

Như chỗ thị-hiện trong một trần

Tất cả vi-trần đều như vậy,

Ðây là những thánh-nhơn cao cả

Tam-muội, giải-thoát thần-thông-lực.

Nếu muốn cúng-dường tất cả Phật

Nhập nơi tam-muội khởi thần-thông

Hay dùng một tay khắp đại-thiên

Cúng khắp tất cả vô-số Phật.

Bao nhiêu hoa đẹp ở mười-phương

Hương thoa, hương bột, báu vô-giá

Ðều từ trong tay xuất hiện ra

Cúng-dường chư Phật ngự đạo-thọ.

Bửu-y vô-giá, xen hương-diệu

Bửu tràng-phan, lọng đều xinh đẹp

Vàng rồng làm hoa, ngọc làm màn

Tất cả đều từ trong tay hiện.

Bao nhiêu vật tốt ở mười-phương

Ðáng đem phụng-hiến đấng vô-thượng

Trong tay tất cả đều hiện đủ

Trước cây bồ-đề cúng chư Phật.

Tất cả kỹ-nhạc ở mười-phương

Chung, cổ, cầm, sắc đủ các loại

Ðồng tấu hòa nhã âm-thinh diệu

Ðều từ bàn tay xuất hiện ra.

Bao nhiêu tán tụng ở mười-phương

Ca ngợi thiệt-đức của chư Phật

Như vậy các thứ diệu ngôn-từ

Ðều từ bàn tay mà khai-diễn.

Bồ-Tát tay mặt phóng tịnh-quang

Trong quang rưới ra nước thơm sạch

Rưới khắp mười-phương các quốc-độ

Cúng dường tất cả Chiếu-Thế-Ðăng.

Lại phóng quang-minh diệu trang-nghiêm

Xuất-sanh vô-lượng hoa-sen báu

Hoa này hình sắc đều rất đẹp

Dùng đây cúng-dường lên chư Phật.

Lại phóng quang-minh hoa trang-nghiêm

Các thứ diệu-hoa họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh hương trang-nghiêm

Các thứ diệu-hương họp làm trướng,

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh mạt-hương tốt

Các thứ mạt-hương họp làm trướng

Rải khăp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh y trang-nghiêm

Các thứ y phục họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh bửu trang-nghiêm

Các thứ diệu-bửu họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang liên-hoa trang-nghiêm

Các thứ liên-hoa họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang anh-lạc trang-nghiêm

Các thứ chuỗi-ngọc họp làm trướng

Rải khắp cõi nước ở mười-phương

Cúng-dường tất cả đấng Ðại-Ðức.

Lại phóng quang-minh tràng trang-nghiêm

Bửu-tràng rực-rỡ đủ màu đẹp

Các loại vô-lượng đều rất tốt

Dùng dây trang-nghiêm các phật-độ.

Các thứ báu đẹp lọng trang-nghiêm

Những phan lụa đẹp treo rủ xuống

Lạc báu ma-ni, diễn phật-âm

Ðem đến kính-dâng cúng chư Phật.

Tay hiện đồ cúng bất-tư-nghị

Như vậy cúng-dường một Ðạo-Sư

Nơi tất cả Phật đều như vậy

Ðây là thần-lực của Ðại-Sĩ.

Bồ-Tát trụ trong môn tam-muội

Các thứ tự-tại nhiếp chúng-sanh

Ðều đem pháp công-đức đã làm

Vô-lượng phương-tiện để chỉ dạy.

Hoặc dùng môn cúng-dường Như-Lai

Hoặc dùng môn nhẫn-nhục bất-động

Hoặc dùng môn khổ-hạnh tinh-tấn

Hoặc dùng môn thiền-định tịch-tịnh,

Hoặc dùng môn trí-huệ quyết rõ

Hoặc dùng môn phương-tiện tu-hành

Hoặc dùng môn phạm-trụ, thần-thông

Hoặc dùng môn tứ-nhiếp lợi-ích,

Hoặc dùng môn phước-trí trang-nghiêm

Hoặc dùng môn nhơn-duyên, giải-thoát

Hoặc dùng môn căn, lực, chánh-đạo

Hoặc dùng môn Thinh-Văn giải-thoát,

Hoặc dùng môn Ðộc-Giác Thanh-tịnh

Hoặc dùng môn Ðại-Thừa tự-tại

Hoặc dùng môn Vô-Thường những khổ

Hoặc dùng môn vô-ngã vô-thọ,

Hoặc dùng môn bất-tịnh, ly-dục

Hoặc dùng môn diệt-tận tam-muội.

Tùy theo chúng-sanh bịnh chẳng đồng

Ðều dùng pháp-dược để đối-trị.

Tùy theo chúng-sanh tâm sở-thích

Ðều dùng phương-tiện khiến đầy đủ.

Tùy theo chúng-sanh hạnh sai-biệt

Ðều dùng chước khéo khiến thành tựu.

những tướng tam-muội thần-thông ấy

Tất cả trời người chẳng lường được.

Có diệu tam-muội tên tùy-lạc

Bồ-Tát trụ đây, khắp quan-sát

Tùy nghi thị-hiện độ chúng-sanh

Ðều khiến vui lòng theo chánh-pháp.

Trong thời-gian, nạn cơ-cẩn, tai

Ban cho thế-gian đồ cần thiết

Tùy chỗ họ muốn đều khiến đủ

Khắp vì chúng-sanh làm lợi-ích :

Hoặc cho những vật uống, ăn ngon

Y-phục, tư-trang, những vật tốt

Cả đến ngôi vua, đều xả được

Khiến kẻ ưa thí theo chánh-pháp.

Hoặc dùng tướng-hảo trang-nghiêm thân

Y-phục thượng-diệu, chuỗi ngọc báu

Tràng hoa nghiêm-sức, hương thoa thân

Oai-nghi đầy đủ, độ hàm thức.

Tất cả thế-gian chỗ ưa chuộng

Sắc tướng, dung-nhan, và y-phục

Tùy nghi hiện đủ, vui lòng họ

Khiến kẻ ưa sắc theo chánh-pháp.

Tiếng ca-lăng-tần-già mỹ diệu

Âm-thinh diệu Câu-chỉ-la thảy

Những thứ phạm-âm đều đầy đủ

Tùy lòng họ thích vì thuyết-pháp.

Tám vạn bốn ngàn các pháp-môn

Chư Phật dùng đây độ chúng-sanh

Bồ-Tát cũng theo pháp sai-biệt

Tùy nghi theo đời mà hóa độ.

Chúng-sanh khổ, lạc, lợi, suy thảy

Những việc thật hành của thế-gian

Ðều hay ứng hiện đồng với họ

Dùng đây phổ-độ các chúng-sanh.

Tất cả thế-gian những khổ hoạn

Sâu rộng không bờ như đại-hải

Ðồng sự với họ đều chịu được

Khiến họ lợi ích được an vui.

Có người chẳng biết pháp xuất ly

Chẳng cầu giải-thoát lìa ồn náo

Vì họ Bồ-Tát hiện thí xả

Thường ưa xuất-gia tâm tịch-tịnh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49750)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34630)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33450)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43927)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57076)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47566)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39419)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38479)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52938)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36598)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32241)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40475)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43489)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31454)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46713)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36210)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28697)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29241)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31890)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28831)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33364)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29138)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60976)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39774)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26675)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29667)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37382)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40088)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26840)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42657)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37286)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28287)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28896)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26394)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27172)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26185)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34646)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27804)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30475)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33284)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28568)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30079)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25493)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21846)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51303)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26727)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28627)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27706)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24360)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27462)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31931)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30186)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27702)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35444)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27445)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30014)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31774)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23026)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24180)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23023)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant