Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trang 3

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 21675)
Trang 3

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM HOA TẠNG THẾ GIỚI 
THỨ NĂM

Lúc đó, Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, mà nói kệ rằng :

Hoa-Tạng thế-giới-hải

Pháp-giới đồng không khác

Trang-nghiêm rất thanh-tịnh

An-trụ nơi hư-không.

Trong thế-giới-hải này

Sát-chủng khó nghĩ bàn

Mỗi mỗi đều tự-tại

Ðều riêng không tạp loạn.

Biển Hoa-Tạng-Thế-Giới

Sát-chủng khéo an bày

Hình khác, trang-nghiêm khác

Các loại tướng không đồng.

Chư Phật biến-hóa-âm

Nhiều loại làm thể đó

Tùy nghiệp-lực mà thấy

Sát-chủng nghiêm-sức đẹp.

Hình Tu-Di, thành, lưới,

Nước xoáy, hình tròn, vuông

Hoa sen nở rộng lớn

Cõi cõi bao quanh nhau.

Hình sơn-tràng, lâu-các

Hình kim-cang xây vòng

Những sát-chủng quảng-đại

Bất-tư-nghì như vậy.

Ðại-hải, lửa chơn-châu

Quang-võng bất-tư-nghì

Những sát-chủng như vậy

Ðều trụ nơi liên-hoa.

mỗi mỗi những sát-chủng

Quang-võng bất-khả-thuyết

Trong quang hiện các cõi

Khắp cả mười phương biển.

Tất cả những sát-chủng

Bao nhiêu đồ trang-nghiêm

Quốc-độ hiện trong đó

Thấy khắp vô-cùng tận.

Sát-chủng bất-tư-nghì

Thế-giới-vô-biên-tế

Nhiều thứ trang-nghiêm đẹp

Ðều do oai-lực Phật.

Trong tất cả sát-chủng

Thế-giới bất-tư-nghì

Hoặc thành, hoặc hư hoại

Hoặc cõi đã hư hoại

Ví như lá trong rừng

Có mọc cũng có rụng

Trong sát-chủng như vậy

Thế-giới có thành hoại.

Ví như trong rừng cây

Các thứ quả sai khác

Như vậy y sát-chủng

Các loài chúng-sanh trụ.

Ví như chủng-tử khác

Sanh quả đều sai khác

Vì nghiệp-lực sai khác

Cõi chúng-sanh không đồng.

Ví như tâm-vương bửu

Tùy tâm thấy màu sắc

Vì tâm chúng-sanh tịnh

Ðược thấy cõi thanh-tịnh.

Ví như đại long-vương

Nổi mây khắp hư-không

Như vậy Phật nguyện-lực

Xuất sanh các quốc-độ.

Như thuật-sĩ ảo-thuật

Hiển được các đồ vật

Vì nghiệp-lực chúng-sanh

Quốc-độ bất-tư-nghì.

Ví như những tượng màu

Của họa-sĩ sáng tác

Như vậy tất cả cõi

Tâm họa-sĩ làm thành.

Thân chúng-sanh khác nhau

Tùy tâm phân-biệt khởi

Như vậy các cõi nước

Không gì chẳng do nghiệp.

Ví như thấy chư Phật

Nhiều hình sắc sai khác

Tùy tâm hành chúng-sanh

Thấy các cõi cũng khác.

Ngàn đắy của các cõi

Bủa giăng lưới liên-hoa

Những tướng trạng không đồng

Trang-nghiêm rất thanh-tịnh.

Những lưới liên-hoa kia

Nơi sát-võng an-trụ

Bao nhiêu sự trang-nghiêm

Các loài chúng-sanh ở.

Hoặc có trong cõi nước

Hiểm trở không bình-thản

Do chúng-sanh phiền não

Thấy trong đó như vậy.

Tạp-nhiễm và thanh-tịnh

Vô-lượng thế-giới-chủng

Tùy tâm chúng-sanh khởi

Bồ-Tát-lực gia-trì

Hoặc có trong cõi nước

Tạp nhiễm và thanh-tịnh

Hoặc do nghiệp-lực khởi

Bồ-Tát chỗ hóa-độ.

Có cõi phóng quang-minh

Ly-cấu-bửu làm thành

Các thứ nghiêm-sức đẹp

Chư Phật khiến thanh-tịnh.

Trong mỗi thế-giới-chủng

Kiếp thiêu bất-tư-nghì

Hiện bày đầy hư ác

Nơi đó thường kiên cố.

Do nghiệp-lực chúng-sanh

Xuất sanh nhiều quốc-độ

Nương trụ nơi phong luân

Và nương thủy-luân trụ.

Thế-giới tự như vậy

Thấy nhiều loại không đồng

Như thiệt không có sanh

Cũng lại không diệt hoại.

Trong mỗi mỗi tâm niệm

Xuất-sanh vô-lượng cõi

Do oai-thần của Phật

Ðều thấy tịnh không nhơ.

Có cõi bùn đất thành

Thể-chất rất cứng rắn

Ðen tối không ánh sáng

Kẻ ác-nghiệp ở đó.

Có cõi kim-cang thành

Tạp nhiễm nhiều lo sợ

Khổ nhiều mà vui ít

Kẻ phước mỏng ở đó.

Có cõi toàn bằng sắt

Hoặc cõi xích-đồng thành

Núi đá hiểm đáng sợ

Kẻ tội ác đầy dẫy.

Trong cõi có địa ngục

Chúng-sanh khổ khó cứu

Luôn ở trong đen tối

Biển lửa thường thiêu đốt.

Hoặc lại có súc-sanh

Biết bao hình xấu-xí

Do nơi tự ác-nghiệp

Thường thọ các khổ-não

Hoặc có cõi Diêm-La

Luôn khổ nỗi đói khát

Trèo lên núi lửa to

Chịu những khổ rất nặng.

Hoặc có các quốc-độ

Bảy báu hiệp lại thành

Bao nhiêu là cung-điện

Do tịnh-nghiệp tạo nên.

Các Ngài xem thế-gian

Trong đó Trời và Người

Quả tịnh-nghiệp thành-tựu

Tùy thời hưởng khoái lạc.

Trong mỗi mỗi chơn lông

Ức cõi bất-tư-nghì

Các thứ tướng trang-nghiêm

Chư từng có chật hẹp.

Chúng-sanh nghiệp sai khác

Thế-giới nhiều vô-lượng

Trong đó sanh thủ-trước

Thọ khổ vui chẳng đồng.

Có cõi thuần châu báu

Thường phóng vô-biên-quang

Kim-cang diệu liên-hoa

Trang-nghiêm tịnh vô-cấu

Có cõi bằng ánh-sáng

Y quang-luân an-trụ

Kim-sắc hương chiên-đàn

Diệm-vân khắp sáng soi.

Có cõi bằng nguyệt-luân

Hương-y trải khắp nơi

Nơi trong một liên-hoa

Bồ-Tát ngồi đầy khắp.

Có cõi bằng châu báu

Hình sắc không bợn nhơ

Ví như lưới Thiên-đế

Quang-minh thường chiếu sáng.

Có cõi bằng chất hương

Hoặc là hoa Kim-cang

Ma-ni quang hiện bóng

Nhìn xem rất thanh-tịnh.

Hoặc có nan-tư-cõi

Hoa xoay kết hợp thành

Trong đó đầy Hóa-Phật

Bồ-Tát khắp sáng rực.

Hoặc có cõi thanh-tịnh

Toàn là những cây hoa

Nhánh đẹp che đạo-tràng

Mây ma-ni giăng khắp.

Có cõi tịnh-quang chiếu

Hoa Kim-Cang làm thành

Có âm-thinh Hóa-Phật

Vô-biên giăng thành lưới.

Có cõi như Bồ-Tát

Mão tốt đẹp ma-ni

Hoặc cõi hình bửu-tòa

Từ quang-minh biến hóa.

Hoặc là mạt chiên-đàn

Hoặc là bạch-hào-quang

Hoặc tiếng trong Phật-quang

Mà thành cõi đẹp đó.

Hoặc thấy cõi thanh-tịnh

Dùng một quang trang-nghiêm

Hoặc thấy nhiều trang-nghiêm

Các cõi đều kỳ-diệu.

Hoặc dùng mười quốc-độ

Vật đẹp để trang-sức

Hoặc dùng ngàn quốc-độ

Tất cả để trang-nghiêm.

Hoặc dùng ức quốc-độ

Trang-nghiêm nơi một cõi

Những hình tướng chẳng đồng

Ðều như bóng tượng hiện.

Bất-khả-thuyết quốc-độ

Trang-nghiêm mơi một cõi

Mỗi vật phóng quang-minh

Do nguyện-lực của Phật.

Hoặc có những quốc-độ

Do nguyện-lực thanh-tịnh

Trong các vật trang-nghiêm

Khắp thấy những sát-hải.

Người tu nguyện Phổ-Hiền

Cảm thành cõi thanh-tịnh

Tam-thế cõi trang-nghiêm

Trong đây hiện đủ cả.

Phật-tử nên quán-sát

Sát-chủng oai-thần-lực

Những quốc-độ vị-lai

Như mộng đều khiến thấy.

Những thế-giới mười phương

Những quốc-độ quá-khứ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49753)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34632)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33453)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43929)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57079)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47568)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39420)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38481)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52947)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36598)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32243)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40478)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43494)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31456)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46714)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36211)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28703)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29243)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31893)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28836)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33368)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29140)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60984)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39776)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26680)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29674)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37385)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40092)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26842)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42662)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37286)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28290)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28897)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26399)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27173)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26188)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34673)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27811)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30477)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33289)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28570)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30079)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25493)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21848)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51313)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26733)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28629)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27711)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24361)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27463)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31935)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30187)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27705)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35453)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27447)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30020)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31776)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23028)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24182)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23025)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant