Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trang 2

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 18375)
Trang 2

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM HIỀN THỦ
THỨ MƯỜI HAI

Nhà là chốn tham ái, ràng buộc

Muốn khiến chúng-sanh, đều khỏi lìa

Nên hiện xuất-gia được giải-thoát

Với các dục lạc không ưa thích.

Bồ-Tát hiện làm mười công-hạnh

Cũng làm tất cả pháp đại-nhơn

Làm hạnh chư Tiên đều không sót

Vì muốn chúng-sanh được lợi ích.

Nếu có chúng-sanh thọ vô-lượng

Phiền-não vi-tế thích đầy đủ

Trong đó Bồ-Tát được tự-tại

Hiện thọ các khổ : già, bịnh, chết.

Hoặc kẻ tham-dục, sân, ngu-si

Lửa mạnh phiền-não luôn hừng cháy

Bồ-Tát thị-hiện già, bịnh, chết

Khiến chúng-sanh đó đều điều-phục.

Như-Lai thập-lực, vô-sở-úy

Cùng với mười tám pháp bất-cộng

Tất cả vô-lượng các công-đức

Ðều đem thị-hiện độ chúng-sanh.

Thọ-ký, giáo-hóa và thần-túc

Ðều là sức tự-tại của Phật

Chư Ðại-Sĩ kia đều thị-hiện

Hay khiến chúng-sanh đều điều-phục.

Bồ-Tát đem các môn phương-tiện

Tùy thuận thế-pháp độ chúng-sanh

Ví như liên-hoa chẳng dính nước

Tại thế như vậy, khiến người tin.

Là vua văn tài, học uyên-bác

Ca vũ, luận bàn, người đều thích

Tất cả kỹ-thuật trong thế-gian

Như nhà ảo-thuật đều hiện đủ.

Hoặc làm trưởng-giả, chủ trong ấp

Hoặc làm thương mãi, người buôn bán

Hoặc làm quốc-vương cùng quan lớn

Hoặc làm lương-y, nhà hùng-biện.

Hoặc làm cây to giữa cánh đồng

Hoặc làm thuốc hay, những kho báu

Hoặc làm bửu-châu như-ý-vương

Hoặc đem chánh-đạo dạy chúng-sanh.

Nếu thấy thế-giới mới thành lập

Chúng-sanh chưa có vật cần dùng

Bấy giờ Bồ-Tát làm công-thợ

Vì họ bầy ra các nghề nghiệp.

Chẳng làm vật bức-não chúng-sanh

Chỉ nói chuyện thế-gian lợi-ích

Các luận : chú-thuật, dược-thảo thảy

Tất cả như vậy đều nói rành.

Thắng-hạnh của tất cả tiên-nhơn

Trời người, mọi loài đều tín-ngưỡng

Những pháp khổ-hạnh khó làm đó

Bồ-Tát tùy-nghi đều làm được.

Hoặc làm ngoại-đạo người xuất-gia

Hoặc ở núi rừng tự cần khổ

Hoặc để mình trần, không y-phục

Mà làm sư-trưởng của chúng kia.

Hoặc hiện những hạnh tà-mạng thảy

Tập làm phi-pháp cho là thắng

Hoặc hiện oai-nghi, làm phạm-chí

Ở trong chúng kia làm thượng-thủ.

Hoặc chịu ngũ-nhiệt, phơi dưới nắng

Hoặc giữ giới bò, chó và nai

Hoặc mặc áo rách, phụng-thờ lửa

Vì độ chúng kia, làm sư-trưởng.

Hoặc hiện yết-kiến các thiên-miếu

Hoặc lại hiện vào nước sông Hằng

Ăn củ, trái thảy, đều hiện làm

Nơi đó thường suy pháp tối-thắng.

Hoặc hiện ngồi xổm, hoặc co chơn

Hoặc nằm cỏ gai, hoặc trên tro

Hoặc nằm trên chày, cầu xuất-ly

Mà ở chúng kia làm sư-thủ.

Như vậy các phái, các ngoại đạo

Quan-sát ý-giải cùng đồng-sự

Hiện làm : khổ-hạnh đời chẳng kham

Khiến họ xem thấy đều điều-phục.

Chúng-sanh mê-lầm bẩm tà-giáo

Trụ nơi ác-kiến, thọ những khổ

Vì họ, phương-tiện, nói diệu-pháp

Ðều khiến được hiểu lý chơn-thật.

Hoặc theo chú-ngữ nói tứ-đế

Hoặc giỏi mật-ngữ nói tứ-đế

Hoặc dùng tiếng người nói tứ-đế

Hoặc Trời mật-ngữ nói tứ-đế.

Phân-biệt văn-tự, nói tứ-đế

Quyết-định nghĩa-lý, nói tứ-đế

Khéo phá nơi người, nói tứ-đế

Chẳng bị dao-động, nói tứ-đế,

Hoặc tiếng bát-bộ, nói tứ-đế

Hoặc tất cả lời, nói tứ-đế

Tùy ngôn-âm thế-gian hiểu được

Diễn thuyết tứ-đế, khiến giải-thoát.

Tất cả bao nhiêu các phật-tử

Ðều nói như vậy đủ tất cả

Biết cảnh-giới lời bất-tư-nghị

Ðây là thuyết-pháp tam-muội-lực.

Có thắng tam-muội tên an-lạc

Hay khắp cứu độ các quần sanh

Phóng đại quang-minh bất-tư-nghị

Khiến ai được thấy đều điều phục.

Quang-minh đã phóng tên thiện-hiện

Nếu có ai gặp quang-minh này

Tất được lợi-ích chẳng luống uổng

Nhơn đây được thành trí vô-thượng,

Bồ-Tát trước hiện nơi chư Phật

Hiện Pháp, hiện Tăng, hiện chánh-đạo

Cũng hiện tháp Phật và hình tượng

Vì thế nên thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên chiếu-diệu

Chói lấn tất cả sáng chư Thiên

Bao nhiêu ám-chướng đều tiêu-trừ

Khắp vì chúng-sanh làm lợi-ích.

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến cầm đèn sáng cúng-dường Phật

Do dùng đèn sáng cúng-dường Phật

Ðược thành thế-gian Vô-Thượng-Ðăng.

Thắp những đèn dầu và đèn tô

Cũng thắp các thứ đuốc sáng tỏ

Những ngọn nến báu thơm đẹp nhất

Dùng đây cúng Phật được quang này.

Lại phóng quang-minh tên tế-độ

Quang này giác ngộ tất cả chúng

Khiến họ phát tâm đại thệ-nguyện

Ðộ thoát quần-sanh trong dục-hải

Thời hay vượt qua bốn dòng nước

Bước đến thành vô-ưu giải-thoát.

Nơi những đường đi ngang sông lớn

Xây cất cầu đò và thuyền bè

Quở rầy hữu-vi khen tịch-tịnh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên diệt-ái

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến họ xa lìa cảnh ngũ-dục

Gẩm suy diệu-vị pháp giải-thoát.

Nếu hay bỏ lìa cảnh ngũ-dục

Gẩm suy diệu-vị pháp giải-thoát

Thời hay dùng Phật pháp cam-lồ

Rưới tắt thế-gian những khát-ái.

Bố-thí ao, giếng, và khe suối

Chuyên cầu bồ-đề đạo vô-thượng

Quở trách ngũ-dục, khen thiền-định

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên hoan-hỷ

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến họ ái-mộ Phật bồ-đề

Phát tâm nguyện chứng vô-sư-đạo.

Tạo lập Như-Lai tượng đại-bi

Tướng hảo trang-nghiêm, ngự liên-tòa

Luôn khen những công-đức tối-thắng

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên ái-nhạo

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến lòng họ mến kính chư Phật

Mến kính tôn-pháp mến kính tăng;

Nếu tâm thường kính mến chư Phật

Kính mến Pháp và kính mến Tăng

Thời ở trong chúng-hội Như-Lai

Thành được pháp-nhẫn sâu vô-thượng.

Khai-ngộ chúng-sanh số vô-lượng

Khiến họ niệm Phật, Pháp, Tăng-Bửu

Và dạy phát tâm tự-tại công-đức

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên phước-tụ

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến họ thật hành nhiều bố-thí

Dùng đây nguyện cầu đạo vô-thượng.

Lập hội đại bố-thí vô-hạn

Ai đến cầu xin đều thỏa mãn

Chẳng để lòng họ còn thấy thiếu

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên cụ-trí

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến nơi một pháp, trong một niệm

Ðều hiểu vô-lượng các pháp-môn.

Ví các chúng-sanh phân-biệt pháp

Nhẫn đến quyết-liễu nghĩa chơn-thật

Khéo nói pháp nghĩa không thiếu bớt

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên huệ-đăng

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến biết chúng-sanh tánh không-tịch

Tất cả các pháp vô-sử-hữu.

Diễn-thuyết các pháp không, vô-chủ

Như huyễn, như diệm, trăng dưới nước

Cũng như giấc mơ, cùng bóng tượng

Do đây được thành quang-minh này.

Phóng quang-minh tên pháp-tự-tại

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến được vô-tận đà-la-ni

Tổng-trì tất cả các phật-pháp,

Cung-kính cúng-dường người trì-pháp

Cung-cấp hầu-hạ chư thánh-hiền

Ðem chánh-pháp thí cho chúng-sanh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên năng-xả

Quang này giác-ngộ kẻ xan-tham

Khiến biết tài vật là vô-thường

Thường thích bố-thí lòng không nhiễm.

Lòng keo-kiết khó điều, được điều

Biết của như mộng, như mây nổI

Thêm lớn tâm bố-thí thanh-tịnh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên trừ-nhiệt

Quang này giác-ngộ kẻ phạm giới

Khiến họ thọ-trì giới thanh-tịnh

Phát tâm nguyện chứng đạo vô-sư.

Khuyên đắc chúng-sanh thọ-trì giới

Mười nghiệp đạo lành đều thanh-tịnh

Lại khiến phát hướng bồ-đề tâm

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nhẫn-nghiêm

Quang này giác-ngộ kẻ sân hận

Khiến họ lìa sân, trừ ngã-mạn

Thường thích pháp nhu-hòa nhẫn-nhục.

Chúng-sanh bạo ác khó nhẫn được

Vì bồ-đề nên tâm chẳng động

Thường thích chánh-pháp-ngợi đức nhẫn-nhục

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên dũng-mãnh

Quang này giác-ngộ kẻ giải-đãi

Khiến họ thường đối với Tam-Bảo

Cung-kính cúng-dường không nhàm mỏi.

Nếu họ thường đối với Tam-Bảo

Cung-kính cúng-dường không nhàm mỏi

Thời hay vượt khỏi cảnh tứ-ma

Mau thành bực bồ-đề vô-thượng.

Khuyến hóa chúng-sanh khiến tinh-tấn

Thường siêng cúng-dường ngôi Tam-Bảo

Lúc pháp sắp diệt chuyên ủng-hộ

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tịch-tịnh

Quang này giác-ngộ kẻ loạn tâm

Khiến họ xa lìa tham, sân, si

Tâm chẳng dao động được chánh-định,

Xa lìa tất cả ác-trí-thức

Luận đàm vô-nghĩa, hạnh tạp nhiễm

Khen ngợi thiền-định, hạnh tịch-tịnh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên huệ-nghiêm

Quang này giác-ngộ kẻ ngu mê

Khiến họ chứng lý, hiểu duyên khởi

Lục căn, trí-huệ đều thông đạt,

Nếu hay chứng lý, hiểu duyên-khởi

Lục-căn, trí-huệ đều thông đạt

Thời được pháp tam-muội nhựt-đăng

Trí-huệ sáng tỏ thành phật-quả,

Của ngoài, trong thân đều hay xả

Vì đạo bồ-đề cầu chánh-pháp

Nghe xong, chuyên cần vì chúng nói

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên phật-huệ

Quang này giác-ngộ các hàm-thức

Khiến thấy vô-lượng vô-biên Phật

Ðều ngự trên bửu-tọa liên-hoa.

Khen Phật oai-đức và giải-thoát

Ngợi Phật tự-tại vô-hạn-lượng

Hiển thị phật-lực và thần-thông

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên vô-úy

Quang này chiếu đến kẻ sợ hãi

Quỷ-mị bắt giữ, những độc hại

Tất cả đều khiến mau trừ diệt,

Hay ban vô-úy cho chúng-sanh

Gặp kẻ não-hại đều khuyên ngăn

Chẩn-tế kẻ cô cùng ách-nạn

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên an-ổn

Quang này chiếu đến người tật bịnh

Khiến trừ tất cả sự khổ đau

Ðều được sự vui trong chánh-định,

Ban cho thuốc hay cứu các bịnh

Diệu-bửu sống lâu, hương thoa thân

Tô, dầu, sữa, mật làm thức ăn

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên kiến-Phật

Quang này giác-ngộ người sắp chết

Khiến, tùy nhớ tưởng, thấy Như-Lai

Mạng chung được sanh cõi nước Phật,

Thấy kẻ lâm-chung khuyên niệm Phật

Lại chỉ tượng Phật bảo nhìn ngắm

Khiến đối với Phật rất kính ngưỡng

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên lạc-pháp

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến nơi chánh-pháp luôn mến thích

Lóng nghe, diễn thuyết và biên chép,

Lúc pháp sắp diệt hay diễn thuyết

Khiến người cầu pháp ý thỏa-mãn

Mến thích chánh-pháp siêng tu tập

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên diệu-âm

Quang này khai-ngộ chư Bồ-Tát

Hay khiến các tiếng trong ba cõi

Người đều nghe là tiếng của Phật,

Dùng âm-thinh lớn ca ngợi Phật

Bố-thí lạc, linh các âm nhạc

Khiến kháp thế-gian nghe tiếng Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Phóng quang-minh tên thí cam-lộ

Quang này khai-ngộ tất cả chúng

Khiến bỏ tất cả hạnh phóng-dật

Tu hành đầy đủ các công-đức,

Nói pháp hữu-vi chẳng an-ổn

Vô-lượng khổ-não đều đầy khắp

Hằng thích ca ngợi vui tịch-diệt

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tối-thắng

Quang này khai-ngộ tất cả chúng

Khiến ở chỗ Phật khắp lóng nghe

Giới, định, trí-huệ pháp tăng thượng,

Thường thích ca ngợi tất cả Phật

Thắng-giới, thắng-định, thắng trí-huệ

Ðó là vì cầu đạo vô-thượng

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên Bửu-nghiêm

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến được bửu-tạng vô-cùng tận

Dùng đây cúng-dường chư Như-Lai,

Ðem các loại bửu-châu thượng-diệu

Dâng lên chư Phật và tháp Phật

Cũng khiến ban cho kẻ nghèo thiếu

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên hương-nghiêm

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến người nghe pháp lòng vui đẹp

Quyết-định sẽ thành công-đức Phật,

Hương tốt quý giá dùng thoa đất

Cúng-dường tất cả đấng Tói-Tôn

Cũng dùng xây tháp và tượng Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tạp trang-nghiêm

Bửu-tràng, phan lọng số vô-lượng

Thắp hương, rải hoa, tấu âm-nhạc

Thành ấp trong ngoài đều khắp cả,

Ðem những kỹ-nhạc vi-diệu ấy

Cùng những hương, hoa, phan, lọng đẹp

Các thứ trang-nghiêm cúng-dường Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nghiêm-khiết

Khiến mặt đại-địa đều bằng phẳng

Trang-nghiêm tháp Phật và chỗ ấy

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên đại-vân

Hay khởi mây thơm hay nước thơm

Nước thơm rưới tháp và đình viện

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nghiêm-cụ

Khiến người thiếu áo được thượng-phục

Vật tốt nghiêm thân đem bố-thí

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thượng-vị

Hay khiến kẻ đói được mỹ-thực

Các thứ ăn ngon đem bố-thí

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên đại-tài

Khiến kẻ nghèo cùng được của báu

Ðem vật vô-tận cúng Tam-Bảo

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nhãn-thanh-tịnh

Hay khiến kẻ mù được ngó thấy

Ðem đèn cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nhĩ-thanh-tịnh

Hay khiến kẻ điếc được nghe rõ

Trổi nhạc cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tỹ-thanh-tịnh

Xưa chưa nghe hương, đều được nghe

Ðem hương cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thiệt-thanh-tịnh

Hay dùng tiếng tốt ca ngợi Phật

Trừ hẳn lời nói thô và ác

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thân-thanh-tịnh

Kể năm căn thiếu khiến hoàn cụ

Ðem thân lễ Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên ý-thanh-tịnh

Khiến kẻ quên-lãng được chánh-niệm

Tu-hành tam-muội đều tự-tại

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên sắc-thanh-tịnh

Khiến thấy Phật-sắc bất-tư-nghị

Ðem những diệu-sắc trang-nghiêm tháp

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thinh-thanh-tịnh

Khiến biết thinh-tánh vốn không tịch

Quán thinh duyên-khởi, như tiếng vang

Do đây được thành quang-minh ấy.

Lại phóng quang-minh tên hương-thanh-tịnh

Khiến vật hôi nhơ đều thơm sạch

Nước thơm rửa tháp, cây bồ-đề

Do đây được thành quang-minh ấy.

Lại phóng quang-minh tên vị-thanh-tịnh

Hay trừ tất cả độc trong vị

Hằng cúng Phật, Tăng cùng cha mẹ

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên xúc-thanh-tịnh

Hay khiến thô-nhám đều dịu mềm

Ðao, mâu, kiếm, kích trên rơi xuống

Ðều khiến biến làm tràng hoa đẹp,

Bởi xưa từng ở giữa đường sá

Thoa hương, rải hoa, trải y-phục

Rước đưa chư Phật đi trên đó

Vì thế nay được quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên pháp-thanh-tịnh

Hay khiến tất cả những chưn lông

Ðều diễn diệu-pháp bất-tư-nghị

Ai nghe pháp này đều vui hiểu,

Nhơn duyên sanh ra, vốn vô-sanh

Pháp-thân của Phật, chẳng phải thân

Pháp-tánh, thường-trụ như hư-không

Do thuyết nghĩa trên được quang ấy.

Những môn quang-minh như đã thuật

Hằng-hà sa-số vô-hạn-lượng

Ðều từ chưn lông Ðại-Tiên phóng

Mỗi quang công-dụng đều sai-biệt.

Như một chưn lông phóng quang-minh

Vô-lượng vô-số như hằng-sa

Tất cả chưn lông đều như vậy

Ðây là Ðại-Tiên tam-muội-lực.

Như bổn-hạnh xưa, được quang-minh

Tùy ai, túc duyên, đồng tu-hành

Nay phóng quang-minh nên như vậy

Ðây là Ðại-Tiên trí tự-tại.

Thuở xưa đồng tự-tại nơi phước-nghiệp

Và người mến thích hay tùy-hỉ

Thấy kia thật hành cũng vui theo

Nay nơi quang này đều được thấy.

Nếu ai tự tu các phước-nghiệp

Cúng-dường chư Phật vô-lượng-số

Nơi công-đức Phật thường nguyện cầu

Ðược quang-minh này làm giác-ngộ.

Như kẻ sanh-manh chẳng thấy trời

Chẳng phải mặt trời không mọc lên

Những người mắt tỏ đều thấy rõ

Riêng theo phận mình làm công việc,

Quang-minh Bồ-Tát cũng như vậy

Người có trí-huệ đều thấy cả

Phàm-phu tà-tín, kẻ mê-si

Nơi quang-minh này không thấy được.

Ma-ni cung-điện và xe kiệu

Báu đẹp hương thơm dùng thoa sáng

Người có phước-đức tự nhiên đủ

Người không phước-đức chẳng ở được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49776)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34655)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33468)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43956)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57112)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47592)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39439)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38491)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52977)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36623)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32258)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40508)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43513)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31480)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46734)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36227)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28723)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29267)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31919)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28860)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33398)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29167)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61019)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39807)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26707)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29700)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37412)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40119)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26866)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42696)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37298)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28316)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28910)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26414)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27187)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26207)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34704)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27832)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30496)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33316)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28585)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30096)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25498)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21863)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51344)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26750)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28641)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27728)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24374)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27490)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31973)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30215)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27731)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35482)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27477)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30043)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31801)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23046)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24204)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23049)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant