Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Ba: Niệm Phật phải đặt trọn lòng tin vào lời Phật dạy

21 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11857)
Phẩm Thứ Ba: Niệm Phật phải đặt trọn lòng tin vào lời Phật dạy

NIỆM PHẬT SÁM PHÁP

Tác giả: HT Thích Thiền Tâm

---o0o---

QUYỂN THƯỢNG

PHẨM THỨ BA

NIỆM PHẬT PHẢI ÐẶT TRỌN LÒNG TIN VÀO LỜI PHẬT DẠY

 

Chúng sanh nơi thế giới ta bà này, đang ở vào đời ác, đủ năm thứ nhơ bẩn, phiền não thì nặng và nhiều, hoàn cảnh bên ngoài thì ác liệt nên sự tu hành không dễ gì tiến bộ. Ðức Bổn sư vì quá thương xót nên vận dụng lòng Bi Trí đặc biệt mở ra pháp môn Niệm Phật. Người tu môn này tuy chưa dứt phiền não, mà có thể mang cả nghiệp hoặc của mình, trở về sinh sống bên cõi Cực-Lạc của Phật A-Di-Ðà. Khi về đến Tây Phương rồi, nhờ nhiều thắng duyên của cảnh ấy nên sự tiến tu chứng đạo rất dễ dàng như cầm lấy món đồ trước mắt. Sự thành tựu lớn lao như vậy là do tất cả đều đặt trên LÒNG TIN.

Kinh HOA NGHIÊM dạy rằng:

Lòng tinbước đầu vào Ðạo, là mẹ của tất cả công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành, lòng tin hay thành tựu quả bồ đề của chư Phật

Thế nên, đối với người niệm Phật thì đức tin có tánh cách rất trọng yếu. Nếu mất đức tin, chẳng những nền tảng tiến đạo phải bi sụp đổ, mà công hạnh giải thoát cũng không thành. Ðức tin này không phải là mê tín, mà chính là lòng tin nương theo trí tuệ, là sự đặt tron vẹn niềm tin vào lời dạy của Phật, Bồ tát và chư vị Tổ sư.

Tại sao đã nương theo trí tuệ, lại còn phải đặt trọn niềm tin vào lời dạy của Phật và Tổ? Bởi vì môn niệm Phật thuộc về pháp đại thừa, mà đã là đại pháp thì chắc chắn phải nói về nhiều cảnh giới siêu việt khác thường, nên có những điều mà trí tuệ phàm phu không thể suy lường nỗi.

Cho nên, trong các kinh điển đại thừa, có nhiều chỗ đức Phật bảo đừng nói cho kẻ nhiều kiến chấp và thiếu lòng tin nghe. Vì chỉ e họ sanh lòng khinh báng mà nghe thêm lỗi lầm. Vì vậy, đệ tử chúng con khi đọc tụng kinh điển đại thừa, có chỗ nào dùng trí tuệ mà hiểu được thì rất tốt – còn chỗ nào suy gẫm nhiều mà không thấu đạt thì chúng con vẫn đặt tron vẹn lòng tin nơi lời chỉ dạy của đức Thế Tôn. Như thế, mới gặt hái nhiều phần lợi ích.

Trong kinh A-Di-Ðà, đức Thế Tôn cũng đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng đây là pháp khó tin khó hiểu, và nói pháp này ra, quả thật là điều rất khó tin, và lòng tin là điều quan trọng bậc nhất.

Chư vị Tổ sư cũng đã dạy rằng: Pháp môn niệm Phật rất khó thâm tín, chỉ duy hạng phàm phu đã gieo trồng căn lành niệm Phật và bậc đăng địa Bồ tát mới tin nhận được mà thôi. Ngoài ra, những chúng sanh khác cho đến hàng nhị thừaThanh VănDuyên Giác hoặc quyền vị Bồ tát, đôi khi cũng không tin nhận pháp môn này.

Ðệ tử chúng con, nhờ năng lực nhiếp thọ của đức A-Di-Ðà, nhờ sự gia trì của sáu phương chư Phật, nên mới có được lòng tin vào lời dạy của đức Bổn-Sư , nhận chắc rằng: cõi Cực-Lạc từ nhân vật đến cảnh giới đều là thật. Tin chắc chắn vào Bản-Nguyện Cứu Ðộ của Phật A-Di-Ðà, nên chúng con dù nghiệp nặng đến đâu chăng nữa, nếu xưng niệm danh hiệu Ngài thì cũng quyết định sẽ được tiếp dẫn vãng sanh Cực-Lạc. Chúng con tin rằng niệm Phật thì thành Phật chắc chắn-nhân nào quả nấy không thể sai lạc mảy may, và nếu nguyện về cõi Phật thì quyết định sẽ được thấy Phật và được vãng sanh. Ðây là một điều vô cùng hiển nhiên khỏi phải cần minh chứng thêm nữa.

Ðệ tử chúng con vẫn tin và hiểu rằng pháp môn Niệm Phật gồm nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật, Mật. Bởi vì khi niệm Phật dứt trừ tất cả vọng tường và chấp trước, rồi đưa đến chỗ minh tâm kiến tánh, đó tức là Thiền. Sáu chữ hồng danh bao gồm vô lượng vô biên ý nghĩa mầu nhiệm, không có một thứ giáo lý nào mà không được chứa đựng ở trong một câu Phật hiệu đó là Giáo.

Niệm Phật chuyên cần sẽ làm thanh tịnh thân nghiệp, khẩu nghiệp, khẩu nghiệpý nghiệp, đưa hành gỉa đến cảnh giới sâu mầu, trong sạch vắng lặng, đó là Luật. Danh hiệu Nam mô A-Di-Ðà Phật có công năng như một câu thần chú đưa chúng con vượt qua biển khổ Sanh-Tử mà thấu bờ bên kia, lại còn giải trừ oán kết tiêu diệt nghiệp chướng, hoàn mãn sở nguyện, hàng phục ma ngoại, đó là Mật.

Trong kinh, Phật dạy rằng : Chí thành xưng niệm danh hiệu Nam mô A-Di-Ðà Phật sẽ được tiêu trừ tội nặng trong tám mươi ức kiếp sanh tử.

Hơn nữa, những người có căn tánh đại thừa, tất phải hiểu rằng NIỆM PHẬT ÐỂ THÀNH PHẬT. Nếu chỉ hiểu niệm Phật cốt để ngăn trừ vọng tưởngphiền não tức là đã lạc vào Ngũ-đình-tâm quán của Tiểu Thừa.

Tại sao niệm Phật là để thành Phật ?

Bởi vì khi vừa đề khởi câu Phật hiệu, thì quá khứ, hiện tạivị lai đều mất cả, tuy có tướng mà lìa tướng, tức sắc là không , hữu niệm đồng vô niệm, đi ngay vào cảnh giới Bản Giác ly niệm của Như-Lai , cho nên đương thể tức là Phật  chứ còn chi nữa?

Huống chi, kinh dạy rằng : Phật A-Di-Ðà thường phóng hào quang nhiếp thọ tất cả chúng sanh niệm Phậtmười phương không bỏ sót.

Thật vậy, đức A-Di-Ðà đã lập ra bốn mươi tám lời thệ nguyện vĩ đại, nhằm đưa hết thảy chúng sanh thành tựu Phật-Ðạo tối thượng. Bản-Nguyện của Ngài phát xuất từ tấm lòng đại từ đại bi nên đã có một oai lực tuyệt đối, thù thắngsiêu việt nhân quả.

Ðệ tử chúng con vốn là những hữu tình bị chi phối bởi vô thường và bất lực trước kiếp sống hữu hạn bị trói buộc bởi nghiệp lực, hoàn toàn bị ước định bởi không gianthời gianluật nhân quả. Cho nên chúng con không bao giờ có thể đạt đến Niết-bàn hay Giác-ngộ được. Sự bất lực không thể tự đạt đến giải thoát, vốn nằm ngay trong bản chất của kiếp sống. Càng nổ lực thì chúng con càng vướng mắc thêm vào những mạng lưới rối rắm, cho nên, chúng con cần đến một sự trợ lực phát sinh từ một căn nguồn nào khác, hơn là cái kiếp sống giới hạn nầy: đó là Bản-Nguyện của đức A-Di-Ðà Phật .

Nhưng Bản-Nguyện không phải là một căn nguồn xa lạ và ở ngoài chúng con. Vì sao vậy? Vì nếu là hoàn toàn ở bên ngoài thì Bản-Nguyện ấy không thể hiểu biết gì về những giới hạn của chúng con và do đó không thể cảm thông với chúng con . Bản-Nguyện của A-Di-Ðà thật ra chính là sự sống của chúng con và là nguồn rung động tâm linh của chúng con, được biểu thị qua một thực thể gọi là SỨC-MẠNH TÂM LINH của đức A-Di-Ðà Phật .

Như vậy, Bản-Nguyện ấy vẫn hằng ở trong chúng con, nhưng lại luôn luôn ở ngoài chúng con. Nếu không ở trong chúng con thì ắt không thể hiểu và cứu vớt chúng con. Nếu không ở ngoài chúng con thì chắc hẳn lại nhận chịu cùng những giới hạn của chúng con. Ðây là một vấn đề vĩnh cữu. Hữu và không Hữu- Ở trong mà lại ở ngoài. Tuy Vô-Hạn nhưng sẳn sàng phụng sự Hữu-Hạn – đầy ý nghĩa nhưng lại chẳng có ý nghĩa gì cả?

Thật ra, Bản-Nguyện chỉ là lực dụng của Phật-Trí, mà Phật-Trí thì vượt lên trên mọi khả năng lĩnh hội của toàn phàm phu như chúng con.

phàm phu vô trí, chúng con chỉ tin theo lời Phật , và chỉ nương tựa vào năng lực cứu độ tuyệt đối của đức A-Di-Ðà niệm Phật cầu nguyện vãng sanh Cực-Lạc.

Ðể biểu lộ lòng tin mãnh liệt và sâu sắc ấy, đệ tử chúng con quyết chí niệm Phật suốt đời, vì đặt trọn lòng tin vào đức Phậtlời Phật dạy, không còn một ý tưởng nghi ngờ. Từ nay trở về sau, đệ tử chúng con luôn luôn ghi nhớ rằng Niệm Phật phải đặt trọn lòng tin vào đức Phật lời Phật dạy 

Với lòng tin vô cùng vững mạnh, đệ tử chúng con xin đem cả tánh mạng mà quy yđảnh lễ :

Nam mô Tây Phương Cực-Lạc thế giới

Ðại từ Ðại bi A-Di-Ðà Phật

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát

Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải chúng Bồ tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15053)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13498)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15205)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16587)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13265)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12627)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13515)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13489)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12808)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12109)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12030)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12700)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11550)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11833)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11204)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13341)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13225)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11633)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12225)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12395)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12020)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12787)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12405)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12251)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12319)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12054)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11973)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11266)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11407)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12408)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12500)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12030)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12998)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12097)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12642)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13051)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13998)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12771)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14902)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11968)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12207)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12918)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12796)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14828)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12798)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15438)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12625)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13253)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14295)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15607)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13772)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13168)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13605)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12514)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12110)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12938)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13031)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13264)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21376)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143898)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant