Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Hàng Sau Kinh Bát Chu Tam Muội

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10933)
Vài Hàng Sau Kinh Bát Chu Tam Muội

KINH BÁT CHU TAM MUỘI
Ðời Tùy Tam Tạng, Khất Ða và Cấp Ða
Việt dịch: HT Thích Minh Lễ

Vài Hàng Sau Kinh Bát Chu Tam Muội
Bành Tế Thanh

Môn niệm Phật tam muội trong ba pháp quán từ giả quán thể nhập, theo kinh Viên Giác gọi là tam ma đề Như Huyển. Muốn thành tựu tam muội này trước tiên nên phát tâm vô thượng bồ đề tu các công đức, tùy theo phương hướng đức Phật đang ngự nhứt tâm chuyên niệm, không rời chỗ ngồi thấy Phật nghe pháp chứng không tam muội, vì biết tất cả pháp đều không thật hữu nên không chi ngăn ngại, mười phương chư Phật từ tâm hiển hiện không có phân ly chia cách, nên trong văn kinh dạy: Lúc quán phương đông thấy nhiều ức trăm ngàn na do tha Phật, nam, tây, bắc, bốn góc, phương trên phương dưới cũng vậy. Tức giả tức không, không phải không không phải giả. Kinh lại dạy: Tâm ta làm Phật, tâm ta là Phật tâm không biết tâm, tâm không thấy tâm. Lại dạy: Thường xả ly các tưởng về tướng mà suy gẫm thấy chư Phật kia, tâm thanh tịnh đây là chánh quán trung đạo, cũng gọi là quán thật tướng Phật, hể quán được thật tướng sẽ chóng tương ưng với pháp thân chư Phật. Như kinh Phật Tạng dạy: Niệm Phật cũng gọi là phương pháp giác quán phá tất cả thiện bất thiện, không giác không quán, lặng nhiên không tướng gọi là niệm Phật. Tại sao? Vì không nên dụng giác quán nhớ niệm chư Phật, không giác không quán mới là thanh tịnh niệm Phật. Trong niệm như thế không tham, không đắm, không thuận, không nghịch, không danh, không tướng, không tưởng, không lời, mới gọi là niệm Phật. Thật cùng với kinh nầy đồng trình bày rõ về niệm Phật. Nhưng với người học Phật sơ cơ chắc chắn phải nhờ nơi tướng mới đạt được vô tướng, do từ niệm mới đi đến vô niệm. Văn Thù bát nhã kinh: Như kẻ học bắn tập mãi chắc giỏi, sau dù vô tâm tên bắn ra mủi mủi đều trúng. Nếu không do tập lâu thành thói quen chỉ nói khan vô tâm thật việc ấy không có bao giờ! Do một môn tam muội nầy làm chỗ tổng trì các pháp, các đại bồ tát nhờ tam muội nầy chứng đại bồ đề. Trong kinh thuyết minhcông đức thọ trìcông đức cúng dường Pháp sư. Bởi pháp môn niệm Phật nầy là phương tiện tối thẳng trong đời mạt pháppháp sư nầy là sứ giả của Như Lai là bậc lãnh đạo cho tất cả chúng sanhnăng lực làm cho dòng Phật không diệt chánh pháp tồn tại lâu bền.

Ngài Đại Thế Chí luận về niệm Phật: con nếu nhớ mẹ như mẹ nhớ con mẹ contrải qua nhiều đời nhưng không xa cách, tự tha không cách năng sở đều vong. Nên ngài Văn Thù có kệ dạy: 

Các hành là vô thường 
Tánh niệm vốn sanh diệt 
Nhơn quả nay cảm khác 
Thế nào chứng viên thông? 

Nếu như theo kinh này dạy: Lấy dầu, nước, thủy tinh, gương soi để soi mặt mình, bóng dáng hiện rõ ra vẻ đẹp xấu lành dữ... nên biết bóng nầy không từ đâu lại cũng không đi về đâu, không sanh không diệt, không chỗ nơi trụ, niệm Phật cũng vậy không phải ta không phải hắn, như mộng như ảo, không ly đương niệm nhơn quả viên thành nhưng cũng không hoại tướng tự tha bởi duyên khởi vô sanh, nhị biên không thể được vậy.

Kinh nầy còn mang một tên nữa là Bát chu tam muội, bát chu nghĩa là chư Phật hiện tiền. Các vị bên giáo thường y theo văn trong kinh có dạy: "Ba tháng kinh hành" nên thường lấy đó làm phương pháp thường hành, thật ra kinh hành để đối trị ngủ nghỉ là một pháp trong các pháp trợ duyên. Văn trước có nói: Đầu hôm sớm mai giữa đêm bớt ngủ nghỉ. Lạy dạy: "ngồi ngay ngắn chuyên niệm một ngày một đêm hoặc bảy ngày bảy đêm", thế nên thực hành tam muội ban sơ đâu có định thường hành không ngủ nghỉ làm khóa trình. Bởi vì pháp hệ niệm cần nơi thần tinh mà sáng mới được nhứt tâm liên tục, muốn được thần tinh mà sáng cũng cần điều hòa bốn đại, nếu bốn đại không hòa, khi gấp động chí hôn mê biếng trễ thừa theo thế là tính ở trước lại nghịch ở sau. Dù có bậc quá lượng mặc giáp hoằng nguyện kiệt tủy khô xương siêng năng thực hành không lui sụt trải qua ba tháng dài coi như khoảng khảy móng tay quyết định thành tựu tam muội, đây là bậc vì pháp quên thân mười phương chư Phật đều che chở đâu có thể lấy thường tình để suy xét được.

Do tam muội nầy không lâu sẽ chứng nhứt thiết chủng trí như chư Phật Như lai, vì thế nên nói thêm mười tám pháp bất cộng, mười thứ năng lực v.v...Nhưng chứng tam muội nầy đắc vô sanh nhẫn hiện tiền được thọ ký đã lên bậc viên giáo sơ trụ, biệt giáo sơ địa, bọn phàm phu há dễ đến địa vị đó sao? Kẻ phát tâm cần phải do tùy hỉ mới thể nhập, vì vậy trong kinh cực lực ca ngợi công đức tùy hỉ, như phẩm thứ Năm trong kinh Pháp Hoa tùy hỷ là nền tảng, mười nguyện Phổ hiền tùy hỷ đứng vào hàng thứ nhứt, lúc phát tâm tùy hỷ tín căn thành tựu nên kinh dạy: Lúc quá khứ, khi ta thực hành đạo Bồ tát đều nhờ tùy hỉ nên đắc công đức nầy, từ đó gia công một niệm tương ưng mười phương chư Phật nào xa cách mảy lông, thành tựu trang nghiêm, lìa hẳn thai ngục đó chẳng phải là cơ hội khó gặp trong muôn đời muôn kiếp sao? Quán sát hai vua quá khứ bỏ nước xuất gia làm tỳ kheo chỉ vì tha thiết môn tam muội nầy, trong vòng tám ngàn năm thậm chí ba muôn sáu ngàn năm hoặc chỉ được nghe một lần hay hoàn toàn không được nghe gì cả, nên kinh còn dạy thêm: Ức Na do tha kiếp tinh chuyên mong cầu tam muội vi diệu này mãi về sau mới được dịp nghe. Như bọn ta đây hiện giờ hết sức may mắn gặp gở được kinh này sao đành chịu cảnh lên núi báu rồi về tay không nhiều kiếp cam đắm chìm trong bể khổ, thật lấy không làm đau xót sao!

Kinh này được dịch lần đầu tiên hết vào khoảng đời nhà Hán do ngài Chi lâu ca Sám đề là Bát Chu Tam muội. Kế tiếp một nhà dịch khác dịch đề là Bạt Bì bồ tát, tiếc thay tên người dịch này đã lạc mất. Văn của hai bộ kinh trên còn lắm sơ sót lại vấp váp nhiều nên đọc hiểu được thật không phải là chuyện dễ, bổn nầy so ra có phần sáng sủa hơn nghĩa cũng đầy đủ, chỉ câu văn từ ngữ đôi khi sai hoặc có lúc lập đi lập lại, có phần đáng tiếc nhơn đó tôi mới gắng công sửa chữa được phần nào toàn hảo, kinh chia ra phẩm mục và phân quyển cũng chưa được thỏa mãn lắm.

Mong nhờ từ quang của chư Phật kinh được truyền bá vô tận, kẻ có duyên gặp được tin nhận thọ trì đem ra phổ biến đều là kẻ trong nhóm năm trăm người tham dự pháp hội khi xưa, xin gác tay lên trán chờ trông.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12492)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10363)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12331)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11639)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12046)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13002)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11440)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12368)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17434)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53021)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21387)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10676)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19233)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12402)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26033)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13311)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14375)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16071)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16825)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17569)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13114)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11596)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14500)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20459)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18985)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19554)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18644)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12177)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12294)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13844)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15017)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15034)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13987)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15508)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11391)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17185)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14971)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20188)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14608)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13836)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11702)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15051)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12989)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22865)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11645)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13164)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16880)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18337)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11935)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11492)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15844)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12867)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18415)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant