Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giáo pháp Thời Luân không biện hộ hay tiên đoán một thế giới quyết chiến giữa thiện và ác

08 Tháng Tư 201100:00(Xem: 22564)
Giáo pháp Thời Luân không biện hộ hay tiên đoán một thế giới quyết chiến giữa thiện và ác

GIÁO PHÁP THỜI LUÂN KHÔNG BIỆN HỘ HAY TIÊN ĐOÁN
MỘT THẾ GIỚI QUYẾT CHIẾN GIỮA THIỆN VÀ ÁC

Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

blankGiáo Pháp Tương Tục [1] hay tantra cao nhất của Đạo Phật, Mật Điển Du Già Tối Thượng [2], dạy những phương pháp thiền quán song song với tiến trình của sự chết và tái sinh nhằm để thâm nhập trình độ vi tế nhất của tâm thức, trình độ Linh Quang biểu hiện một cách tự nhiên tại thời điểm lâm chung. Qua việc sử dụng trình độ đặc biệt này của tâm thức để đạt đến sự tỉnh thức an lạc vô phân biệt về tính không, hành giả xa lìa vĩnh viễn sự tương tục bất giác tinh thần, những cảm xúc phiền não, năng lực của nghiệp báo, và những khuynh hướng cùng thói quen của tất cả những điều này. Trong việc hoàn thành điều này, hành giả đạt đến sự chấm dứt thật sự những năng lựcnguyên nhân đưa đến sự lưu chuyển không thể kiểm soát của những sự chết và tái sinh phàm tình của họ, và vì thế đạt được sự giải thoátgiác ngộ vì thế các vị ấy có thể làm lợi ích hữu hiệu nhất cho mọi người.

Hệ thống Bí Mật Tập Hội [3] của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng [4] cũng bao hàm trình độ vĩ mô vũ trụ song song đến những phương pháp thiền quán cho việc thâm nhập vào tâm linh quang. Nó thự hiện sự liên hệ đến những vòng tuần hoànvũ trụ trải qua một cách định kỳ, với sự tái diễn không thể kiểm soát của tan rã (hoại), thời điểm trỗng rỗng (không), tiến triển (thành), và chịu đựng (trụ), tương tự đến những gì mà những chúng sinh bất toàn trãi qua với những sự tái diễn không thể kiểm soát của chết, thời điểm trung ấm thân, tái sinh, và thọ mạng của đời sống. Những sự thực hành thiền quán giải thoát hành giả khỏi sự khống chế không chỉ những chu kỳ tái diễn nội tại của chết, tái sinh, mà cũng tự do với những vòng tuần hoàn tương ứng ngoại tại của vũ trụ.

Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại. Nhằm để làm cho tiến trình tịnh hóa có thể hoàn thành trọn vẹn, hệ thống này trình bày một kiểu mẫu thiên văn học ngoại tại và những chu kỳ thiên văn, nhưng cũng đặt song song những thực hành thiền tập đặt biệt của nó. Vì cùng mục tiêu tính chất bao gồm, hệ thống cũng trình bày một hình ảnh bố trí đặc biệt của lịch sử, địa lý, và sinh lý học tương tự song song với cấu trúc này, nhưng điều ấy, do bởi đồ án có ý thức của nó, khác biệt với hình ảnh được trình bày trong những kinh luận Phật Giáo khác. Bằng việc thấu hiểu tất cả những hướng dẫn tương ứng này – và những cấu trúc vĩ mô xảy ra dưới ảnh hưởng của con ngườinghiệp nhân, hành giả tiếp nhận sự thiền quán Thời Luân tương ứng nhằm để tịnh hóa sự tương tục tâm linh nghiệp báo của họ và đạt đến giải thoát cùng giác ngộ. Do vậy, khuynh hướng căn bản của sự thực hành Giáo Pháp Thời Luân không khác với những hệ thống Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng.

Nhằm để làm cho sự trình bày của những thực hành thiền quán cho việc vượt thắng vô minh si ám và những cảm xúc phiền não hoang dã khơi dậy nghiệp chướng cần được tịnh hóa, Giáo Pháp Thời Luân thêm vào hình ảnh minh họa những chu kỳ diễn tả lịch sử của những đấng cứu thể chân chínhsai lạc, những sự xâm phạm Bạch Ngọc Cung (Shambhala), những chiến trận khải huyền, và những thời đại hoàng kim mới. Sự trình bày lịch sử này minh họa trên những đặc trưng của chính trị, sự kiện, và những tín ngưỡng tôn giáo – đạo đa thần phổ biến và những quan tâm về thời gian và địa điểm thể hiện trong văn học Thời Luân, đấy là vào đầu thế kỷ thứ mười Tây Lịch trong khu vực giữa miền Đông A Phú Hản và Kashmir.

Điều quan trọng để đánh giá sự kiện rằng văn kiện Giáo Pháp Thời Luân đã thiết lập một cách có ý thức những minh họa lịch sử phù hợp với cấu trúc của sự thực tập thiền quan. Do thế, sự dự đoán và một chiến trận quyết liệt tương lai giữa thiện và ác [5] xảy ra 1.800 năm sau việc tìm ra hệ thống tín ngưỡng của những năng lực xâm phạm, đại diện của vô minh si ám, tương đương:

1. 1.800 hơi thở xãy ra trong mỗi 12 thời điểm hoàng đạo[6] tượng trưng của một ngày.
2. 1.800 hơi thở đi chính yếu qua chóp mũi trong 12 thời điểm luân phiên của một ngày, trong ấy chính yếu thổi hơi thở luân phiên từ lỗ mũi này sang lỗ mũi kia.
3. 1.800 hơi thở thổi qua mỗi 12 kinh mạch hoàng đạo tượng trưng của luân xa rốn trong tiến trình một ngày.
4. 1.800 giờ chiêm tinh trong mỗi 12 tháng âm lịch, mỗi tháng có 30 ngày, trong mỗi ngày có 60 giờ chiêm tinh.
5. 1.800 phút trong 30 độ của mỗi 12 biểu tượng của hoàng đạo, mà trong mỗi độ có 60 phút.
6. 1.800 năm của sự rộ nở Giáo Huấn Thời Luân trong ‘lục địa’ của chúng ta sau chiến trận khải huyền [7].
7. 1.800 năm mà Giáo Huấn Thời Luân sẽ rộ nở sau đó trên mỗi 11 ‘lục địa’ khác trong sự trình bày địa lý của Giáo Pháp Thời Luân.
8. 1.800 hạt năng lượng hạt nguyên sơ sắp xếp trong mỗi khu vực của 12 khu vực thuộc kinh mạch năng lượng trung ương trong thời điểm của 12 cấp độ tâm thức của Bồ Tát địa.
9. 1.800 thời khắc không thay đổi của kinh nghiệm tỉnh thức an lạc trên căn bản của mỗi mỗi nhóm này của 1.800 hạt.
10. 1.800 khí năng lượng của nghiệp báo được chấm dứt và 1.800 khía cạnh của thói quen nghiệp báo được loại trừ bằng phương tiện của mỗi nhóm của 1.800 thời khắc của sự an lạc tỉnh thức không thay đổi của tính không.

Hơn thế nữa, mỗi khu vực chiến trận của những lực lượng xâm lược và phản công chiến thắng có một sự tương ứng với một hay những khía cạnh của vô minh si ám và lực lượng phản công của tuệ trí. Thế thì rõ ràng, hình ảnh lịch sử được trình bày trong văn học Thời Luân chưa bao giờ có khuynh hướng như một tuyên bố chính sách chính trị xã hội của Đạo Phật. Phải thừa nhận rằng, một ít trường hợp hiếm hoi đã từng xãy ra mà trong ấy một số lĩnh đạo quân sự của Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổ, Liên Bang Xô Viết, và Đế Quốc Nhật Bản đã khám phá những chủ đề trong hình tượng này cho mục tiêu chính trị. Nhưng những sự lạm dụng này bị căn cứ trên sự thấu hiểu sai lạc xu hướng của Giáo Huấn Thời Luân. Người ta không chứng minh rằng một việc thực hiện sự thấu hiểu sai lạc tương tự có bao giờ xãy ra, hiện tại, hay sẽ là chương trình chính trị của những Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng. Đưa đến kết luận như vậy là một sai lầm luận lý (logic) như kết luận rằng sự khởi đầu một cuộc Viễn Chinh thánh chiến hay Tòa Án Dị Giáo là chính sách thông thường của Giáo Hội Thiên Chúa (Christian Church).

Đối thoại và thấu hiểu liên tôn giáo, tốt hơnnghi ngờ sai lầm và mất niểm tin, là cần thiết cho việc nuôi dưỡng hòa bình thế giới. Ban pháp khai tâm Thời Luân là một cống hiến của Đạo Phật đến chương trình quan trọng vô cùng này và chắc chắn không là một tiến trình bổ sung cho một cuộc thánh chiến Phật Giáo. Nó đưa con người của những niềm tin khác biệt và tín ngưỡng trần gian kết hợp với nhau trong một không khí hòa bình cho một sự tái khẳng định chí nguyện đạo đức của con người để phản công vô minh si ámthành kiến với sự thông hiểutôn trọng hổ tương.


[*] Giáo Pháp Thời Luân: Kalachakra
[1] Giáo Pháp Tương Tục: Tantra – thuật ngữ Tantra có nghĩa là tương tục, tinh thần tương tục, đời sống tương tục- “Tiếp theo là Mật thừa, là điều mà tôi cho rằng có một số liên hệ đến lần chuyển pháp luân thứ ba. Từ ngữ ‘tantra’ có nghĩa là ‘sự tương tục’. Mật Điển Du-già có tên gọi là Trang Nghiêm Kim Cương Tâm Yếu Mật Điển giải thích rằng giải thích rằng tantra là một sự tương tục được định nghĩa là sự tương tục của tâm thức. Trên căn bản của tâm thức này, mà với cấp độ phát khởi chúng ta phạm phải những hành vi tiêu cực, như một kết quả của những điều đó, chúng ta trải qua vòng luân hồi tàn bạo của sinh tử. Trên con đường tâm linh, cũng trên căn bản của sự tương tục tâm thức mà chúng ta có thể tạo nên những sự cải thiện tinh thần, trải nghiệm những nhận thức cao thượng của đạo pháp và v.v… Nó cũng là căn bản của sự tương tục tâm thức mà chúng tathể đạt đến thể trạng toàn giác [nhất thiết trí]. Do thế, sự tương tục này của tâm thức luôn luôn hiện diện, đấy là ý nghĩa của tantra hay sự tương tục.” – Lần Chuyển Pháp Luân Thứ Ba – TỔNG QUAN VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG. http://www.hoavouu.com/D_1-2_2-230_4-3860_5-75_6-1_17-165_14-1_15-2/
[2] Anuttarayoga
[3] Guhyasamaja
[4] Tantra Yoga Tối Thượng – Anuttarayoga tantra
[5] Armageddon battle
[6] zodiac
[7] the apocalyptic battle

Kalachakra Does Not Advocate or Predict an Actual World Armageddon
Tác giả: Alexander Berzin, March 2008
Ẩn Tâm Lộ ngày 04/12/2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/advanced/kalachakra/kalachakra_world_peace/kc_not_advocate_predict_armageddon.html
→ Read the full story |
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27184)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21775)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22239)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23618)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20058)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24761)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18999)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24775)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30989)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24001)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27770)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26530)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21335)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23234)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38148)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18808)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19995)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19055)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23184)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22824)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22934)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29595)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18719)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15852)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18868)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19695)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20169)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19962)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22959)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34191)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16432)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16929)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39272)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26087)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20111)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24075)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22908)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30974)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21018)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26870)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20680)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26272)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19831)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24693)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30051)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20236)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20416)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15152)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15845)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23917)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19871)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant