Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 24: Quán tứ đế

08 Tháng Tư 201100:00(Xem: 9506)
Chương 24: Quán tứ đế

LONG THỌ BỒ TÁT Nàgàrjuna
TRUNG LUẬN Màdhyamaka-Śàstra
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt dịch THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003

CHƯƠNG XXIV: QUÁN TỨ ĐẾ

Hỏi: Phá được bốn điên đảo, thông đạt bốn Thánh đế, đắc bốn quả sa môn.

Nếu tất cả đều không,

Không sanh cũng không diệt;

Như thế thì không có, 

Pháp bốn Thánh đế ấy.[1] [1] 

bốn Thánh đế không;

Thấy khổ cùng đoạn tập,

Chứng diệt và tu đạo,

Việc như thế đều không. [2] 

Bởi vì việc ấy không,

Không có bốn đạo quả.

Vì không có bốn quả,

Đắc, hướng[2] ấy cũng không. [3] 

Nếu không Tám Hiền Thánh[3], 

Thì không có Tăng bảo.

Do vì không Tứ đế,

Cũng không có Pháp bảo. [4] 

Pháp, Tăng bảo không có,

Cũng không có Phật bảo.

Nói nghĩa không như vậy,

Thế là phá Tam Bảo. [5] 

Nếu tất cả thế gian đều không, không thật có, tức không sanh không diệt. Bởi vì không sanh, không diệt nên không có pháp bốn Thánh đế. Vì sao? Từ Tập đế sanh Khổ đế. Tập đế là nhân, Khổ đế là quả. Diệt “khổ tập đế”0 gọi là Diệt đế. Có khả năng đưa đến Diệt đế gọi là Đạo đế. Đạo đế là nhân, Diệt đế là quả. Như thế Tứ đế có nhân, có quả. Nếu không sanh không diệt thì không Tứ đế. Vì Tứ đế không có, nên không thấy khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo. Vì bốn sự kiện ấy là không nên không có bốn Sa môn quả; và không bốn sa môn quả cho nên không có bốn hướng và bốn đắc. Nếu không có bốn bậc Hiền Thánh này thì không có Tăng bảo. Lại vì bốnThánh đế không; Pháp bảo cũng không. Nếu không Pháp bảoTăng bảo, làm sao có Phật bảo? Đắc Pháp gọi là Phật, không pháp làm thế nào có Phật? Ông nói các pháp đều không thì phá hoại Tam bảo.

Lại nữa: 

Pháp Không, hoại nhân quả,

cũng hoại lý tội phước.

Cũng là hoại tất cả,

Nhất thiết pháp thế gian. [6] 

Nếu người chấp nhận pháp không thì phá tội phước và quả báo tội phước, cũng phá luôn pháp thế tục. Vì có những lỗi như thế v.v.. nên các pháp chẳng thể không.

Đáp: 

Nay ông thật không thể,

Biết không, nhân duyên không[4];

Và chẳng biết nghĩa không;

Thế nên tự sanh não. [7] 

Ông không hiểu rõ tánh không là gì? vì nhân duyên gì mà nói không? Cũng chẳng hiểu rõ nghĩa không. Vì không thể biết như thật nên sanh khởi nghi nạn như thế.

Lại nữa:

Chư Phật y hai đế,

chúng sanh nói pháp.

Một là thế tục đế

Hai đệ nhất nghĩa đế. [8] 

Nếu người không thể biết,

Phân biệt hai đế này;

Đối thậm thâm Phật Pháp,

Không biết nghĩa chân thật. [9] 

Thế tục đế, theo đó, tất cả pháp tánh là không, nhưng vì thế gian điên đảo sanh khởi pháp hư vọng; đối với thế gian, nó là thật. Chư Hiền Thánh biết một cách chân thật tánh nó điên đảo; biết tất cả pháp đều không, không sanh. Đối với bậc Thánh nhân đệ nhất nghĩa đế đó được gọi là thật. Chư Phật y trên hai đế vì chúng sanh nói pháp. Nếu người không thể biết như thật phân biệt hai đế, đối với pháp thậm thâm của Phật, không thể biết nghĩa chân thật. Nếu nói, tất cả pháp không sanh là đệ nhất nghĩa đế mà không cần cái thứ hai là thế tục đế; điều ấy cũng không đúng. Tại sao?

Không y thế tục đế,

Không được đệ nhất nghĩa.

Không đạt đệ nhất nghĩa,

Thì không đắc Niết-bàn. [10] 

Đệ nhất nghĩa đều nhơn ngôn thuyết; ngôn thuyếtthế tục. Thế nên, nếu không y thế tục thì đệ nhất nghĩa không thể nói. Nếu không được đệ nhất nghĩa, làm thế nào đạt đến Niết-bàn? Thế nên, các pháp tuy không sanh mà có hai đế.

Lạinữa:

Không thể chánh quán không,

Độn căn tất tự hại.

Như không khéo chú thuật,

Không khéo bắt rắn độc. [11] 

Nếu người độn căn không khéo hiểu rõ pháp không; do hiểu sai lạc Không mà sanh khởi tà kiến. Như người vì ham lợi mà bắt rắn dộc; không biết khéo bắt, trở lại bị nó làm hại. Cũng như chú thuật, muốn làm điều gì mà không thể khéo thành, tất trở lại tự hại. Người độn căn quán pháp không cũng như thế.

Lại nữa:

Thế Tôn biết pháp ấy,

Tướng thậm thâm vi diệu;

Độn căn không thể đạt,

Thế nên chẳng muốn nói. [12] 

Đức Thế Tôn đối với pháp thậm thâm vi diệu, chẳng phải kẻ độn căn có thể hiểu; thế nên không muốn nói.

Lại nữa:

Ông nói tôi chấp Không,

Mà bảo tôi sai lầm.

Sai lầm mà ông nói,

Không có trong Tánh không. [13] 

Ông nói tôi vì chấp Không là tôi có lỗi. Nhưng tánh Không mà tôi tuyên bố là Không cũng không, nên chẳng có lỗi như thế. 

Lại nữa:

Bởi vì có nghĩa không,

Tất cả pháp được thành.

Nếu khôngnghĩa không,

Nhất thiết pháp không thành. [14] 

Vì có nghĩa không nên tất cả pháp thế gianXuất thế gian đều tựu thành. Nếu khôngnghĩa Không thì không tựu thành.

Lại nữa:

Nay ông tự có lỗi,

Mà xoay về cho tôi.

Như người cỡi lưng ngựa,

Tự quên mình đang cỡi! [15] 

Ông đối trong pháp Có, có những lỗi lầm không thể tự biết; mà đối trong pháp Không lại thấy lỗi tôi. Như người cỡi trên lưng ngựa mà quên con ngựa đang cỡi. Vì sao?

Nếu ông thấy các pháp,

có tánh quyết định ấy;

Tức là thấy các pháp,

Không nhân cũng không duyên. [16] 

Ông nói các pháp có tánh quyết định; nếu thế, tất thấy các pháp không nhân, không duyên. Tại sao? Nếu pháp có tánh quyết định thì lẽ ra không sanh không diệt. Pháp như thế cần gì đến nhân duyên? Nếu các pháp từ nhân duyên khởi thì không có tự tánh. Những pháp ấy quyết địnhtự tánh thì không nhân duyên. Nếu nói các pháp quyết định trụ tự tánh, thế thì không đúng. Vì sao?

Tức là phá nhân quả,

Tác, tác giả, tác pháp.

Cũng là hoại tất cả,

Sanh diệt của vạn vật. [17] 

Các pháp có tánh cố định thì không có những điều nhân quả v.v. Như bài tụng nói:

Pháp do các duyên sanh,

Tôi nói đó là không,

Cũng chính là giả danh,

Cũng là nghĩa Trung đạo. [18] 

Chưa từng có một pháp,

Chẳng từ nhân duyên sanh.

Thế nên tất cả pháp,

Không gì không phải Không. [19] 

Pháp do các duyên sanh, tôi nói tức là không. Vì sao? Các duyên đầy đủ hòa hiệp phát sanh sự vật. Sự vật ấy thuộc các duyên, nên không có thể tánh. Vì không tự tánh nên không. Cái Không đó cũng không, chỉ vì dẫn đạo chúng sanh dùng giả danh mà nói. Lìa hai bên có và không gọi là Trung đạo. Bởi pháp ấy không tự tánh không thể nói Có. Vì cũng chẳng có cái Không nên chẳng được nói không. Nếu pháp có thể tínhthật tướng thì không đợi các duyên mà có. Nếu không nhờ các duyên thì không có pháp. Thế nên chẳng có pháp bất không. Pháp Không mà ông chỉ tríchsai lầm ở trên, sai lầm ấy nay trở về ông. Vì sao?

Nếu tất cả bất không,

Thì không có sanh diệt.

Như thế là không có,

Pháp bốn Thánh đế ấy. [20] 

Nếu tất cả pháp mỗi mỗi có thể tính, không phải là không, thì không có sanh diệt. Vì không sanh, không diệt nên không có pháp bốn Thánh đế. Vì sao?

Nếu không từ duyên sanh,

Làm thế nào có khổ?

Nghĩa khổ là vô thường,

Định tánh chẳng vô thường. [21] 

Nếu không từ duyên sanh thì không có khổ. Vì sao? Kinh nói vô thường là nghĩa khổ. Nếu khổ có tánh quyết định, làm sao có vô thường, vì nó không bỏ mất tự tánh.

Lại nữa:

Nếu khổ có tự tánh,

Làm sao từ tập sanh?

Thế nên không có tập,

Bởi vì phá nghĩa Không. [22] 

Nếu khổ quyết địnhtự tánh thì không thể sanh nữa, vì trước đã có. Nếu vậy, không có Tập đế, vì ông phá hủy nghĩa không.

Lại nữa:

Khổ nếu cố định tánh,

Thì không nên có diệt.

Ông chấp tánh cố định,

Tức phá nghĩa Diệt đế. [23] 

Khổ nếu có tánh cố định thì không thể diệt. Vì sao? Tánh, tất không hoại diệt.

Lại nữa:

Nếu khổ, tánh cố định,

Thì không có tu Đạo.

Đạo có thể tu tập,

Thì tánh không cố định. [24] 

Pháp nếu có tánh cố định thì không có tu đạo. Vì sao? Nếu pháp thật tức là thường. Thường nên không thể thêm. Nếu Đạo có thể tu tất không có tánh cố định.

Lại nữa:

Nếu khôngKhổ đế,

Và không Tập, Diệt đế.

Thì Đạo diệt trừ khổ,

Sẽ đi đến chỗ nào? [25] 

Các Pháp nếu trước có tánh cố định thì không có Khổ, Tập, Diệt đế. Vậy nay Đạo diệt khổ sẽ dẫn đến chỗ diệt khổ nào?

Lại nữa:

Nếu khổ có định tánh,

Từ trước giờ không thấy.

Nay đây làm sao thấy,

Vì tánh kia không khác. [26] 

Nếu trước kia khi còn là phàm phu, không thể thấy tánh khổ, nay cũng không thể thấy. Tại sao? Vì không thấy tánh cố định.

Lại nữa:

Như thấy Khổ, không đúng,

Đoạn Tập và chứng Diệt,

Tu Ðạo và chứng quả,

Cũng đều là không đúng. [27] 

Như tự tánh trước Khổ đế trước không thể thấy, sau cũng không nên thấy. Như thế cũng không nên có đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo. Vì sao? Tánh của Tập ấy, từ trước tới giờ không đoạn, nay cũng không thể đoạn. Vì tự tánh thì không thể bị đoạn. Diệt từ trước đến giờ không chứng, nay cũng không thể chứng, vì từ trước đến giờ không chứng. Đạo không thể tu, vì từ trước đến giờ không tu. Thế nên bốn hành tướng của bốn Thánh đế là kiến, đoạn, chứng và tu, đều không thể có. Vì bốn hành tướng không, bốn Đạo Quả cũng không. Vì sao?

Tánh bốn Đạo Quả ấy,

Trước giờ không thể đắc.

Nếu các pháp định tánh,

Nay làm sao khả đắc? [28] 

Nếu các pháp có tánh cố định, bốn quả Sa môn trước giờ chưa chứng đắc, nay làm thế nào có thể chứng đắc? Nếu có thể chứng đắc, thì tánh không cố định.

Lại nữa:

Nếu khôngtứ quả,

Thì không có Đắc, Hướng.

Vì không có Tám, Thánh,

Nên không có Tăng bảo. [29] 

Vì không có bốn quả Sa môn nên không có đắc quả, hướng quả. Vì không có tám bậc Hiền Thánh nên không có Tăng bảo; mà kinh nói tám bậc Hiền ThánhTăng bảo.

Lại nữa:

Vì không bốn Thánh đế,

Cũng không có Pháp bảo.

Không Pháp bảo,Tăng bảo,

Làm sao có Phật bảo.[30] 

Tu hành bốn Thánh đế đắc pháp Niết-bàn. Nếu khôngbốn Thánh đế thì không có Pháp bảo. Không có hai bảo, làm thế nào có Phật bảo? Ông bằng nhơn duyên như thế mà nói các pháp có tánh cố định, tất là phá hoại Tam bảo:

 Hỏi: Ông tuy phá các pháp, nhưng cứu cánh đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên có, vì nhơn Đạo ấy mà gọi là Phật.

Đáp:

Nói thế thì, chẳng phải

Nhơn Bồ đề có Phật.

Cũng không phải nhơn Phật

Mà có đạo Bồ đề. [31] 

Ông nói các pháp có tánh cố định thì không nên nhơn Bồ đề mà có Phật; nhơn Phật[5] có Bồ đề; vì hai tánh ấy thường quyết định.

Lại nữa;

Tuy là cần tinh tấn,

Tu hành đạo Bồ đề

Nếu trước không Phật tính,

Chẳng thể đắc Phật quả. [32] 

Do vì trước không có tánh, như sắt không có tánh chất của vàng, tuy được luyện lọc theo nhiều cách, nhưng không thể thành vàng.

Lại nữa:

Nếu các pháp bất không,

Không người tạo tội phước.

Bất không tác dụng gì?

Bởi vì kia định tánh. [33] 

Nếu các pháp Bất không, thì không bao giờ có người tạo tội, tu phước. Tại sao? Vì tánh tội phước trước đã cố định, lại do không có tác, tác giả.

Lại nữa:

Ông cho trong tội phước,

Không sanh quả báo ấy.

Thế thì lìa tội phước,

Mà có các quả báo? [34] 

Ông cho rằng trong nhân duyên của tội phước, thảy đều không có quả báo; thế thì lìa nhân duyên của tội phước mà có quả báo. Tại sao? Vì quả báo không đợi nhân mà phát hiện.

Hỏi: Lìa tội phước có thể khôngquả báo thiện, ác, nhưng từ tội phước có quả báo thiện, ác.

Đáp:

Nếu nói từ tội phước,

Mà phát sanh quả báo.

Quả từ tội phước sanh,

Làm sao nói bất không. [35] 

Nếu lìa tội phước thì không có quả thiện, ác; vậy làm thế nào nói quả là bất không? Nếu vậy, lìa tác và tác giả thì không tội phước: Ở trên ông nói các pháp bất không, điều ấy không đúng.

Lại nữa:

Ông phá tất cả pháp,

Các nhân duyên, nghĩa không;

Cũng hủy phá tất cả, 

Các pháp thế tục khác. [36]

Ông, nếu bác bỏ đệ nhất nghĩa không của các pháp do nhân duyên, thì cũng phá tất cả pháp thế tục. Tại sao?

Nếu hủy phá nghĩa không,

Tức là không tạo tác.

Không tác mà có tác,

Không tác gọi tác giả. [37]

Nếu phá nghĩa không thì tất cả quả đều không có nhân. Lại, cái không tạo tác mà tạo tác. Lại nữa, tất cả tác giả không thể có sở tác gì cả. Lại nữa, lìa tác giả nên có nghiệp, có quả báo, có thọ giả. Song những điều ấy không đúng. Thế nên không thể bác bỏ Không.

Lại nữa:

Nếu có tánh cố định,

Mọi tướng trạng thế gian.

Sẽ không sanh không diệt,

Thường trú mà không hoại. [38] 

Nếu các pháp có tánh cố định, thì mọi tướng trạng sai biệt của thế gian như trời, người, súc sanh, vạn vật, đều nên không sanh, không diệt, thường tồn không hoại diệt. Tại sao? Vì có thật tánh nên không thể biến đổi. Nhưng hiện thấy vạn vật đều có tướng biến đổi sanh diệt biến dị, thế nên không thể có tánh cố định.

Lại nữa;

Nếu mà chẳng có Không,

Chưa đắc không thể đắc;

Cũng không đoạn phiền não,

Cũng chẳng việc khổ tận. [39] 

Nếu chẳng có pháp không, thì những công đức thế gianxuất thế gian vốn chưa chứng đắc đều không thể chứng đắc; cũng không nên có đoạn phiền não và không có sự diệt tận khổ. Tại sao? Vì tánh cố định.

Thế nên trong kinh nói,

Nếu thấy pháp nhơn duyên.

Thế là hay thấy Phật,

Thấy Khổ, Tập, Diệt, Đạo.[6] [40] 

Nếu người thấy tất cả pháp đều từ các duyên mà sanh khởi; người ấy tức thấy pháp thân Phật, thêm lớn trí tuệ, có thể thấy được bốn Thánh đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Thấy bốn Thánh đế, chứng đắc bốn Thánh quả, diệt những khổ não; bởi thế không nên hủy phá nghĩa Không. Nếu phá nghĩa Không tức phá pháp nhân duyên. Phá pháp nhân duyên thì phá Tam bảo. Nếu hủy phá Tam bảo tức là tự phá hủy mình. 
 
 

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Chương này đặt lại vấn đề là có Tứ Thánh đế hay không? Bởi lẽ tất cả pháp đều không, trong ấy có pháp tứ diệu đế. Khổ, tập, diệt và đạo. Nếu cho rằng Tứ Thánh đế là pháp thật có thì thành ra chấp thường. Thật có tức là do định tánh. Có định tánh thì nó không thể thay đổi, không thay đổi thì khi người hiểu biết khổ, họ cần phải tu tập, diệt khổ, chứng Niết-bàn không thành vấn đề, vì khổ nó có định tánh, thay đổi, đoạn diệt. Tập đế, diệt đếđạo đế cũng vậy, đều có định tánh cả, có tu hay không tu, nó vẫn như thế không đổi thay.

Nếu nói rằng Tứ Thánh đế không có. Ấy là chấp đoạn. Tứ Thánh đế thuộc Pháp bảo, nếu Pháp bảo không có thì Tăng bảoPhật bảo cũng không. Tăng bảo là nhân vật thực hành giáo pháp tu tập chánh lý, giác pháp chánh lý khôngtu hành cái gì mà gọi là Tăng bảo. Không có Tăng chúng tu hành thì ai thành Phật mà gọi là Phật bảo.

[2] Tức bốn quả và bốn hướng, gồm tám bậc Hiền Thánh trong bốn bậc Thanh văn.

[3] Tám Hiền Thánh, tức bốn quả và bốn hướng nói trong bài kẽ trước. Xem cht. trên.

[4] Phạn: ...zùnyatayàư na tvaư vetsi prayojanaư..., vì ông không hiểu mục tiêu (nguyên nhân hay động cơ) của tánh không.

[5] Các bản Tống-Nguyên-Minh: nhơn Phật đạo.

[6] Phạn: yahï pratìtyasamutpàdaư pazytìdaư sa pazyati, duhïkhaư samudayaư caiva nirodhaư màrgam eva ca, ai thấy duyên khởi, người ấy cũng thấy cái này, là khổ, tập, diệt và đạo.
 
CHƯƠNG I: QUÁN NHÂN DUYÊN[1]

Không sanh cũng không diệt,

Không thường cũng không đoạn,

Không nhất cũng không dị,

Không lai cũng không khứ;

Khéo nói nhân duyên này [2],

Thiện[3] diệt những hí luận.

Con cúi đầu lễ Phật,

Bậc thuyết giáo đệ nhất.

Hỏi: Vì cớ gì làm luận này?

Đáp: có người nói: “Vạn vật do trời Đại Tự Tại [4] sanh ra”. Có người nói: “Do trời Vi-nựu[5] sinh ra”. Có người nói: “Do sự hòa hiệp mà sanh ra[6]”. Có người nói “Từ thời gian sanh ra.” Có người nói: “Từ thể tánh phát sanh[7]”. Có người nói: “Do sự biến hóa sanh ra”. Có người nói: “Do tự nhiên mà sanh ra”. Có người nói: “Do vi trần mà sanh ra”.

Những thuyết như thế đều sai lầm, rơi vào trong các tà kiến như: Vô nhân, Thường nhân, Đoạn, Thường và chấp đủ các thứ Ngã và Ngã sở, không biết rõ chánh pháp. Đức Thế Tôn muốn đoạn trừ những tà kiến sai lầm như vậy để dẫn đến Chánh Pháp, nên trước hết, đối trong hàng Thanh văn nói pháp Thập nhị Nhân duyên. Lại vì những vị đã tu tập hành trì, tâm trí quảng đại, có khả năng nhận lãnh thâm pháp; Ngài đem lý Đại Thừa, nói tướng Nhân duyên. Pháp Nhân duyên đó tức là tất cả các pháp đều không Sanh, không Diệt, không Nhất, không Dị, v.v… rốt ráo là không, hoàn toàn không hiện hữu. Như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, Phật bảo Ngài Tu-bồ-đề: “Bồ tát khi ngồi ở đạo tràng, quán Thập nhị Nhân duyên cũng như hư không, không cùng tận”. Sau Đức Phật diệt độ 500 năm, trong thời kỳ tượng pháp, căn tánh con người trở thành ám độn, đắm sâu các pháp; đi tìm tướng quyết định nơi mười hai Nhân duyên, 5 ấm, 12 nhập, 18 giới. Không hiểu thâm ý của Phật mà chỉ chấp vào văn tự. Nghe kinh Đại thừa nói: “Rốt ráo Không”; chẳng biết vì nhân duyên gì mà nói là Không, từ đó phát khởi kiến chấp nghi ngờ rằng: “Nếu tất cả đều rốt ráo là Không, làm thế nào phân biệt báo ứng của tội phước v.v…” Và như vậy, không có Thế đếĐệ nhất nghĩa đế. Chấp thủ tướng Không ấy, khởi lên sự tham trước, ở trong lẽ rốt ráo Không ấy mà sinh khởi vô số sai lầm. Vì những lý do đó, nên Ngài Long Thọ làm bộ luận này.

Không sanh cũng không diệt,

Không thường cũng không,

Không nhất cũng không dị,

Không Lai cũng không khứ;

Khéo nói nhân duyên ấy,

Thiện, diệt những hí luận.

Con cúi đầu lễ Phật,

Bậc thuyết giáo đệ nhất. 

Với hai bài tụng tán thán Phật. Như vậy là đã nói một cách cô đọng về Đệ nhất nghĩa.

Hỏi: Các Pháp vô lượng, sao chỉ dùng tám điều ấy để phá?

Đáp: Pháp tuy vô lượng, nhưng lược nói tám sự thể cũng gồm phá tất cả Pháp.

Nói là không sanh, bởi vì các luận sư có nhiều chủ trương khác nhau về tướng sanh. Có người nói rằng nhân quả nhất thể; nhân quả dị thể; trong nhân trước có quả; trong nhân trước không quả. Hoặc nói rằng, sanh ra từ chính nó, hoặc sanh từ cái khác, hoặc nói sanh ra từ cả hai; hoặc là có sanh; hoặc nói không có sanh. Những chủ trương về tướng sanh ấy đều không đúng, điều này sau sẽ nói rộng. Vì không thể tìm thấy tính chất cố định của tướng sanh nên nói là Không Sanh. Đã không sanh làm thế nào có hoại diệt. Vì không sanh, không diệt cho nên sáu điều còn lại cũng không.

Hỏi: Không sanh, không diệt đã tổng phá tất cả pháp, sao còn nói chuyện sáu điều?

Đáp: Vì để thành nghĩa bất sanh, bất diệt. Có người không chấp nhận bất sanh bất diệt, nhưng lại tin nhận bất thường, bất đoạn. Nếu thâm tâm đã tin bất thường bất đoạn, thì cũng tức đồng nghĩa bất sanh,bất diệt. Tại sao? Nếu pháp thật sự hiện hữu thì chẳng phải là Không. Trước có nay không tức là đoạn. Như nếu trước có tính cố định, tức là thường. Thế nên nói không thường, không đoạn là dẫn vào ý nghĩa không sanh, không diệt.

Có người tuy nghe các pháp bị bác bỏ bởi bốn trường hợp trên, nhưng lại chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng bốn trường hợp khác, và điều này vẫn không đúng. Nếu là nhất thể thì không duyên; dị thể thì chẳng tương tục. Sau sẽ nói rộng, thế nên nói không nhất, cũng không dị.

Có người nghe dùng sáu sự thể này bác bỏ các pháp, nhưng vẫn chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng sự đến (lai) và đi (xuất). Nói là đến (lai) nghĩa là các pháp từ Tự Tại Thiên, từ Thể tánh, từ vi trần v.v.. đến. Nói là đi (Xuất) là đi về bổn xứ.

Lại nữa, vạn vật không có sanh. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian, theo cái thấy bằng con mắt của thế gian, thì vào buổi kiếp sơ lúa không sanh. Tại sao? Vì lìa hạt lúa của kiếp sơ thì lúa hiện tại không thể có. Nếu lìa lúa của kiếp sơ mà có lúa hiện tại thì có sanh; nhưng thật chẳng phải, nên không sanh.

Hỏi: Nếu không sanh thì có diệt?

Đáp: Không diệt. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì lúa của kiếp sơ không hoại diệt; nếu nó diệt, lẽ ra nay chẳng có luá; nhưng thật có lúa, nên không diệt.

Hỏi: Không diệt thì thường?

Đáp: Không thường. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật không thường, như lúa khi nảy mầm thì hạt giống kia mục rã; thế nên không hường.

Hỏi: Nếu không thường thì đoạn?

Đáp: Không đoạn. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật chẳng đoạn. Như từ hạt lúa mà có mầm, nên không đoạn; nếu đoạn thì chẳng tương tục.

Hỏi: Như thế vạn vật là Một?

Đáp: Không một. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian vạn vật chẳng phải một. Như lúa không phải mầm; mầm là lúa thì là một. Nhưng thật chẳng phải; thế nên không phải một.

Hỏi: Nếu chẳng phải một thì khác?

Đáp: Không phải khác. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật chẳng khác. Nếu khác, làm thế nào phân biệt mầm lúa, nhánh lúa, lá lúa, mà không nói: mầm cây, nhánh cây, lá cây v.v..; thế nên không khác.

Hỏi: Nếu không khác thì có đến?

Đáp: Không đến. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật không đến; như mầm trong hạt lúa không từ đâu đến. Nếu đến, thì mầm phải từ chỗ khác đến; như chim kia đến đậu trên cành cây, nhưng thật không phải nên không đến.

Hỏi: Nếu không đến thì có đi?

Đáp: Không đi. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật chẳng đi. Nếu có đi thì lẽ ra thấy mầm từ nơi hạt lúa mà đi ra; như con rắn từ hang bò ra, nhưng thật chẳng phải thế, nên không đi.

Hỏi: Ông tuy giải thích nghĩa bất sanh, bất diệt. Nhưng tôi muốn nghe quan điểm của Luận chủ.

Đáp: 

Các pháp không tự sanh,

Không từ cái khác sanh,

Từ cả hai, không nhân.

Thế nên biết không sanh[8] [1] 

Không tự sanh là vạn vật không từ tự thể phát sanh, phải nhờ các duyên. Lại nữa, nếu từ tự thể sanh ra thì một pháp có hai thể: 1) Sự sanh. 2) Cái sanh. Nếu lìa các nhân khác mà từ tự thể sanh thì không nhân, không duyên. Lại nữa, đã sanh rồi lại sanh nữa, sự sanh sẽ vô cùng. Vì tự thể không có nên tha thể cũng không. Tại sao? Có tự nên có tha, nếu không từ tự thể phát sanh cũng chẳng từ tha thể phát sanh. Cộng sanh thì có hai lỗi: tự sanh, tha sanh. Nếu không nhân mà có vạn vật tức là thường; điều ấy không đúng. Không nhân thì không quả. Nếu không có nhân mà có quả thì những người bố thí, trì giới v.v… nên đọa địa ngục, kẻ tạo tội thập ác, ngũ nghịch được sanh thiên đường, vì không nhân vậy.

Lại nữa,

Như tự tánh các pháp,

Không tồn tại trong duyên.

Vì vốn không tự tánh,

Nên tha tánh cũng không[9] [2] 

Tự tánh của các pháp không có trong các duyên; chỉ do các duyên hòa hiệp mà có được tên gọi. Tự tánh tức là tự thể. Trong các duyên, chẳng có tự tánh. Tự tánh không, nên chẳng tự phát sanh. Tự tánh không thì tha tánh cũng không. Vì sao? Do tự tánh mà có tha tánh. Tha tánh đối với tha thể cũng là tự tánh. Nếu phá hủy tự tánh tức hủy phá tha tánh. Thế nên, không phải từ tha tánh sanh ra. Nếu phá tự tánh, tha tánh tức phá hủy nghĩa cộng tánh. 

Nếu nói không nhân, thì có lỗi lớn. Có nhân mà còn bị phá huống hồ không nhân. 

Trong bốn trường hợp ấy không tìm thấy có sự sanh, thế nên không sanh.

Hỏi: Các nhà A-tì-đàm nói: “Các Pháp do bốn duyên mà phát sanh.” Tại sao nói không sanh? Bốn duyên như thế nào?

Nhân duyên, thứ đệ duyên,

Duyên duyên, tăng thượng duyên;

Bốn duyên sanh các pháp,

Không có duyên thứ năm[10] [3]

Tất cả các duyên được biết đến đều thâu tóm trong bốn duyên; do bốn duyên này mà muôn vật được phát sanh.

Nhân duyên[11], chỉ tất cả các pháp hữu vi.

Thứ đệ duyên[12]; trừ tâm và tâm sởsát na tối hậu của A-la-hán thuộc quá khứhiện tại, còn lại các tâm và tâm sở thuộc quá khứ khác.

Duyên duyên[13] và tăng thượng duyên[14], chỉ tất cả các pháp.

Quả là từ duyên sanh,

Hay là phi duyên sanh?

Chính duyên ấy có quả,

Hay là Duyên không quả?[15]. [4]

Nếu nói có quả, thì quả ấy từ duyên phát sanh hay từ phi duyên phát sanh? Nếu nói có duyên thì chính duyên ấy có quả hay là không quả? Cả hai trường hợp đều chẳng đúng. Tại sao?

Quả sanh do pháp ấy,

Pháp ấy gọi là duyên.

Nếu quả ấy chưa sanh,

Sao không nói phi duyên? [5]

Các duyên không có tính chất quyết định. Vì sao? Nếu quả chưa phát sanh, lúc ấy không gọi là duyên; chỉ khi con mắt thấy từ duyên phát sanh quả mới gọi nó là duyên. Duyên thể tựu thành là do quả thể; vì quả có sau. duyên có trước. Nếu chưa có quả, đâu được gọi duyên. Như chiếc bình là do đất, nước phối hợp mà phát sanh; thấy bình thì biết đất, nước v.v… là duyên của bình. Nếu bình khi chưa có, sao không nói đất, nước v.v… là phi duyên? Thế nên quả không từ duyên phát sanh. Từ duyên mà nó còn chẳng sanh huống là từ phi duyên.

Lại nữa:

Quả trước ở trong duyên,

Có, không đều bất thành.

Trước không, duyên cái gì?

Trước có, cần gì duyên?[16]. [6]

Trong duyên, trước không có quả, cũng chẳng phải không quả. Nếu trước có quả, không gọi là duyên. Vì quả trước đã có. Nếu trước không quả cũng chẳng là duyên; vì không phát sanh vật khác.

Hỏi: Đã tổng phá nhân duyên. Nay muốn nghe mỗi phá các duyên.

Đáp: 

Như quả không có sanh[17],

Cũng chẳng phải không sanh,

Chẳng phải có không sanh,

Sao được nói có duyên?[18] [7]

 Nếu duyên có thể phát sanh quả thì có ba trường hợp: Có, không, hoặc vừa có vừa không. Như bài tụng trước đã nói; trong duyên, nếu trước có quả thì không nên nói sanh; vì trước đã có. Nếu trước không quả cũng chẳng được nói sanh, vì trước không có; và trong trường hợp đó duyên hay phi duyên đều như nhau. Vừa có vừa không cũng không sanh; vừa có vừa không là nữa có nữa không, cả hai đều lỗi. Lại có và không trái ngược. Không và có trái ngược nhau, thì làm thế nào một pháp có thể có cùng hai tướng ấy? Như thế, trong ba trường hợp không thể tìm thấy có tướng sanh của quả, làm sao nói có nhân duyên?

Về Thứ đệ duyên:

Quả nếu khi chưa sanh,

Thì không thể có diệt.

Pháp diệt, làm sao duyên,

Nên không thứ đệ duyên. [8]

Các tâm vương, tâm sở pháp, trong ba thời tiếp nối sanh khởi. Tâm sở pháp hiện tại hủy diệt làm thứ đệ duyên cho tâm và tâm sở pháp vị lai. Nhưng pháp vị lai chưa sanh thì chúng làm thứ đệ duyên cho cái gì? Nếu pháp vị lai đã có, tức đã phát sanh thì cần gì thứ đệ duyên? Tâm và tâm sở hiện tại thì niệm niệm liên tục chẳng đình trú[19]. Nếu không đình trú, thì thế nào có thể làm thứ đệ duyên? Nếu có đình trú thì chẳng phải pháp hữu vi. Vì sao? Tất cả pháp hữu vi thường là diệt tướng. Nếu đã hủy diệt thì không thể làm thứ đệ duyên cho cái gì cả. Nếu nói pháp đã hủy diệt nhưng vẫn tồn tại thì tức là thường; đã thường thì chẳng có tội phúc v.v… Hoặc nói rằng ngay khi đang diệt, nó có thể làm thứ đệ duyên; nhưng đang diệt có nghĩa là nữa đã diệt, nữa chưa diệt chứ không có pháp thứ ba nào khác được gọi là cái đang diệt. Lại nữa, Đức Thế Tôn dạy: “Tất cả Pháp hữu vi niệm niệm hủy diệt, không có chừng khoảng một niệm đình trú”, làm sao nói pháp hiện tạisự kiện sắp diệt và sắp chưa diệt? Nếu ông nói rằng trong một niệm không có cái sắp diệt và chưa sắp diệt[20], như vậy là tự bác bỏ chủ trương của mình. Vì trong A-tì-đàm của ông có nói rằng: “Có pháp đã diệt và pháp không diệt; có pháp sắp diệt, và pháp không sắp diệt.” Pháp sắp diệt là pháp hiện tại sắp muốn hủy diệt. Pháp không sắp diệt là trừ pháp hiện tại sắp muốn hủy diệt; còn lại các pháp khác thuộc hiện tại và các pháp thuộc quá khứ, vị laivô vi, đó là những pháp không sắp diệt. Cho nên, không có thứ đệ duyên.

Về duyên duyên[21]:

Pháp chân thật vi diệu[22],

Như Chư Phật đã nói:

Đó là pháp không duyên,

Vậy đâu có duyên duyên.[23] [9]

Đức Phật dạy, trong các pháp Đại thừa, những gì hoặc có sắc, hoặc không sắc, hữu hình, vô hình, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi. Những pháp tướng ấy nhập pháp tánh. Tất cả đều Không, không tướng, không duyên. Ví như dòng sông chảy vào biển, đồng làm một vị. Thật Pháp có thể tin nhưng được nói ra theo cơ nghi nên không thể cho là thật. Do đó, không có sở duyên duyên.

Về Tăng thượng duyên:

Các pháp không tự tánh,

Nên không có tướng có.[24]

Nói rằng: “Cái này có,

Nên kia có.”[25] Không đúng. [10]

 Kinh nói về Mười hai nhân duyên rằng “Cái này có, cho nên cái kia có.” Điều ấy không đúng. Tại sao? Vì vạn pháp từ các duyên phát sanh, cho nên tự nó không có định tánh. Không có định tánh, do đó không có tướng có. Tướng có không có làm sao có thể nói: “Cái này có, cho nên cái kia có.” Do đó, không có tăng thượng duyên. Đức Thế Tôn tùy theo sự phân biệt có và không của phàm phuthuyết pháp.

Lại nữa:

Trong nhân duyên riêng, chung[26], 

Không thể tìm thấy quả.

Trong nhân duyên nếu không,

Làm sao từ duyên khởi? [11]

Chúng là chỉ cho sự tập hợp của các duyên, trong đó không có quả. Riêng là chỉ cho từng nhân duyên riêng biệt, trong đó cũng chẳng có quả. Nếu trong nhân duyên chung và riêng mà không quả, làm thế nào nói quả từ nhân duyên phát sanh?

Lại nữa:

Nếu nói duyên không quả,

Mà từ duyên phát sanh; 

Quả ấy sao chẳng từ

Trong phi duyên phát xuất? [12]

Nếu không thể tìm thấy quả trong nhân duyên, thì tại sao nó không xuất hiện từ cái phi duyên? Như trong đất bùn, không có bình, thì tại sao bình không xuất hiện từ sữa?

Lại nữa:

Nếu quả từ duyên sanh;

Duyên ấy không tự tánh.[27]

Từ vô tự tánh sanh,

Sao được từ duyên sanh. [13]

Quả chẳng từ duyên sanh,

Không từ phi duyên sanh.

Vì quả vốn không có,

Duyên, phi duyên cũng không [14]

Quả từ các duyên phát sanh. Duyên ấy không có tính cố định. Nếu khôngtự tính thì không có pháp; không có pháp làm thế nào có thể phát sanh? Thế nên quả không từ duyên sanh.

Không từ duyên sanh tức là phủ định duyên, nên nói là phi duyên. Thật ra, chẳng có pháp phi duyên. Thế nên, không từ phi duyên mà sanh. Nếu nó không sanh khởi từ hai trường hợp đó, thế thì quả không có. Không có quả, do đó duyên và phi duyên cũng không.
 
 
 
 

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Nhân duyên, hay duyên, Skt. pratyaya: điều kiện quan hệ. Cần phân biệt với nhân duyên chỉ hai yếu tố nhân (hetu:nguyên nhân) va duyên (pratyaya).TS

[2] Trong bản Skt., cac từ bát bất, duyên khởi (pratìtyasamutpàdam), diệt hý luận (prapaĩcopazamam) và thiện (zivam) là những từ đồng cách, do dó được hiểu là đồng nghĩa, va cùng chỉ chung một thực tại. TS

[3] Thiện, trong các giải thích Hán đều hiểu là trạng từ, do đó thiện diệt... được giải thích là “diệt trừ một cách khéo léo, toàn thiện.” Thiện trong bản Sanskrit là ziva: an ổn, cát tường, tịch tĩnh... Giải thích của Prasannapàda: sarvaprapaĩcopamazivalakwaịaư nirvàịaư... “các phẩm tính diệt hý luận, an ổn (ziva), chỉ cho Niết-bàn.” TS

[4] Đại Tự Tại thiên, hay Ma-hê-thủ-la thiên (Skt. Mahezvara), biệt danh của Ziva (Thần Thấp-bà), Thượng đế, hay Thần sáng tạo thế gới, vạn vật; một chi phái tín ngưỡng thuộc Ấn độ giáo.

[5] Vi-nựu thiên (Viwịu), Thượng đế, hay Thần sáng tạo. Nguyên là thần Mặt trời. Cùng với Brahman, và Ziva, họp thành Tam vị nhất thể (trimùrti) hay Chúa Ba ngôi của Ấn độ giáo. TS

[6] Cát Tạng, Trung quán luận sớ (Đại 42, tr. 15a): dẫn Đề-bà, “Có một phái ngoại đạo chủ trương trước khi có loài người, tồn tại một người nam và một người nữ.Từ hai người này sinh ra vạn vật; do đó nói là sinh từ sự hòa hiệp.” Bản Skt., Akutobhaya (Vô úy luận): ìzvarapuruwobhaya-..., “từ Chúa trời, từ Linh hồn nguyên thủy, từ cả hai...” TS

[7] Cát Tạng, sđd. : chủ trương của phái Minh sơ. Thế giới khởi nguyên từ sự tối tăm mông muội. Chủ trương này liên hệ với thuyết Prakfti của Số luận (Sankhyà). TS

[8] Ngài Long Thọ Bồ tát muốn chúng ta nhận định lại hoặc hiểu thêm về lý nhân duyên sanh một cách hữu lý, không rơi vào thiên kiến, mê chấp, cố định. Phật Phápbất định pháp. Nó phải được thể hiện qua thời gian, không gian, tùy căn cơ của mỗi từng lớp nhân sanh, trình độ trí thức hay kém trí thức. Bịnh trầm trọng của nhân loại chúng sanh là bịnh thiên kiến, cố chấp; các pháp thường tồn, đoạn diệt, hay là do Thượng đế, Phạm Thiên sáng tạo v.v…. chính nguyên nhân cố chấp làm trở ngại con đường khai phóng tự tại giải thoát. Cố chấp là không có tinh thần uyển chuyển, mở tầm mắt, tâm hồn khoáng đại, để nhận lãnh và quan sát cùng tận chân lý phổ quát, tòan diện. Nói rằng các pháp có nhân duyên sanh; sự thật ngày nay không ai còn nghĩ rằng sự vật trong vũ trụ này là từ vô nhân hay ngẫu nhiên có, mà không phải từ nhiều nhân tố, phương tiện điều kiện hợp thành, như cái bàn, cái ghế. Ngay bản thân chúng ta, cũng do nhiều nhân tố hợp thành… Nhưng chúng ta đừng khẳng định rằng tất cả đều do nhân duyên sanhcố chấp nhân duyên.

[9] Các pháp do nhân duyên sanh là chính nó không có tự tánh. Tự tánh là chỉ bản thể thường trú mà Long Thọ Bồ Tát gọi là Zùnya, tánh chân không. Bản thể này không phải từ nhân duyên hay phi nhân duyên. Do đó tự tánh bản thể chân không là tánh bất sanh bất diệt…

[10] Nhưng nếu chúng ta quan niệm rằng, ngoài pháp nhân duyên sanh có một tự tánh thường trú khác, thuộc phi nhân duyên, quan niệm như thế cũng là sai lầm thiên kiến. Còn có quan niệm về hữu nhân duyên, phi nhân duyên v.v… là còn các biến chấp trước có không.

[11] Nhân duyên (hetu-pratyaya), điều kiện để sanh là nguyên nhân trực tiếp. Không nên nhầm với từ nhân duyên trong đề của chương. TS

[12] Thứ đệ duyên, cũng gọi là đẳng vô gián duyên (samanantara-pratyaya), điều kiện để phát sanh là sự tiếp nối liên tục. TS

[13] Duyên duyên, hay sở duyên duyên (àlambana-pratyaya), điều kiện để thức sanh khởi là đối tượng để thức bám vào. TS

[14] Tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya), điều kiện là những tác động gian tiếp (của môi trường). TS

[15] Chúng ta thường hiểu quả là từ nhân duyên sanh ra. Như thế với nhân giống nhau hay khác? Theo quan niệm rằng quả không khác nhân, bởi nhân sanh ra quả. “Nhân nào quả ấy” quan niệm như thế không phải sai, song không phải hoàn toàn đúng. Bởi vì, nếu quả giống nhân, nhân quả không khác, như vậy người ta đặt danh từ nhân quả làm gì? Nhân quả không khác, có nghĩa nhân tức là quả, quả tức là nhân. Và như thế nhân quả là một. Khi nói nhân trong ấy đã có quả thì không cần nói quả của nhân, thêm thừa.

[16] Như nếu nói quả khác với nhân. Điều này cũng không đúng. Nhân khác, quả khác thì cũng như nói hột mang cầu (nhân) sanh ra trái mít (quả). Quan niệm trong nhân đã có quả, trong nhân không có quả, quả chẳng phải là nhân duyên, hữu quả, vô quả, phi nhân, phi quả… là quan niệm còn trong tư tưởng lẫn quẩn. Thấu triệt chân lý Phật giáo là người phải nhận định phân minh các nghĩa hẹp, nghĩa rộng, sự lýtương đối tuyệt đối dung hòa không gian thời gian, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên.

[17] Hán: phi hữu sanh, nên hiểu là không hiện hữu hay không tồn tại; Skt. na san... TS

[18] Bài tụng này phê phán khái niệm “nhân” hay nguyên nhân (hetu), tức duyên thứ nhất trong bốn duyên. Nhưng theo Cát Tạng, cả 4 bài tụng trên đều nhắm phê phán về nhân duyên; 3 bài kế tiếp, phê phán 3 duyên còn lại. TS

[19] Cát Tạng, Trung quán luận sớ 3 (Đại 30, tr. 49b): Trong Thượng tọa bộ, có một Luận sư chủ truơng (đây chỉ Ttheravàda-Pali) rằng sắc pháp diệt ngay khi vừa sanh, nhưng tâm pháp tồn tại trong 15 sát-na mới diệt. TS

[20] Hán: dục diệt, vị dục diệt. Luận sớ của Cát Tạng đọc là dục diệt bất dục diệt, và giải thích: “ dục diệt, chỉ phần sắp diệt trong hiện tại.; bất dục diệt, chỉ phần bắt đầu sanh trong hiện tại.” (Trung quán luận sớ 3, Đại 30, tr. 50a). TS

[21] Phân biệt hai từ duyên đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ duyên trước, Skt. àlambana, sự (hay cái, để) vin vào, bám vào. Từ duyên sau, Skt. pratyaya, điều kiện cần có để phát sanh. TS

[22] Từ Skt. trong bản La-thập đọc là sad- dharma (chân thật vi diệu pháp. Các bản Sanskrit hiện có đều đọc là san dharma (pháp đang tồn tại). TS

[23] Chính thế, Bồ tát Long Thọ áp dụng luận cứ uyển chuyển bằng học thuyết “Tánh Không” trong Trung Quán luận, bắt đầu bằng nguyên lý nhân duyên sanh. Vì đây là đầu mối đưa đến diệt vọng chấpgiải thoát toàn diện, giác ngộ viên mãn qua lý Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế.

[24] Tham chiếu bản Skt.: bhàvànàư nihïsvabhàvànàư na sattà vidyate yatahï, “vì không thể nhận thức được sự hiện hữu của những hữu thể vốn không tự hữu.”

[25] Tóm tắt phát biểu về duyên khởi của Phật: thử hữu cố bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh... (asmin satìdaư bhavati). TS

[66] Hán: lược quảng nhân duyên trung; tham chiếu bản Skt.: (...) vyasta-samastewu pratyayewv-..., “trong các điều kiện bị tách rời hay được kết hợp.” TS

[27] Tham chiếu Skt.: phalaṃ ca pratyayamayaư pratyatàz càsvayammayàh, “kết quả là cái được tác thành bởi duyên (điều kiện); nhưng các duyên lại là những cái không tự tác thành.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11928)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12058)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12548)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10756)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17967)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11717)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10165)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12342)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15327)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11227)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14318)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12087)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15335)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12388)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10597)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14791)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12659)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16536)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19630)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12648)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12245)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11829)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10886)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13485)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11936)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11834)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11622)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14498)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15653)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13602)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12883)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9854)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18002)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11149)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9063)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12161)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13033)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10287)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12176)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15287)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16580)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12198)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11459)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14258)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19679)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24582)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10674)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant