Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 10: Phật Hương Tích

09 Tháng Mười 201000:00(Xem: 9881)
Chương 10: Phật Hương Tích

Chương 10
PHẬT HƯƠNG TÍCH
[1]

Lúc bấy giờ Xá-lợi-phất tâm niệm, «Sắp đến giờ ăn. Các Bồ tát này sẽ ăn gì đây.» Duy-ma-cật biết ý đó, bèn nói: 

«Phật đã dạy tám pháp giải thoát.[1] Nhân giả đã thọ hành. Há lẫn lộn giữa sự muốn ăn và nghe Pháp sao? Nếu ngài muốn ăn, xin chờ giây lát, sẽ được bữa ăn hiếm có.»

Tức thì, Duy-ma-cật nhập định[2] và dùng thần thông lực chỉ cho hội chúng thấy ở phương trên, cách thế giới này vượt qua bốn mươi hai Hằng hà sa số cõi Phật, có một nước tên là Chúng hương,[3] có Phật hiệu Hương Tích[4] nay đang tại thế. Hương thơm của quốc độ này át hẳn mọi hương thơm của chư thiên trong các quốc độ khắp mười phương. Trong quốc độ đó không có tên gọi Thanh-văn và Bích-chi-Phật[5] mà chỉ có chúng đại Bồ tát thanh tịnh nghe Phật giảng Pháp. Ở đó hương thơm tạo ra mọi thứ như lầu các, đất đai, vườn tược và hoa viên khiến chúng tỏa mùi thơm ngát. Còn thực phẩm thì có mùi thơm lan tỏa đến vô lượng thế giới khắp mười phương. Ngay lúc bấy giờ Phật và chư Bồ tát ở đó vừa cùng ngồi lại để thọ thực được dâng cúng bởi những người con của chư thiên thảy đều có tên là Hương Nghiêm,[6] đều đã phát tâm cầu giác ngộ tối thượng. Hết thảy hội chúng đều trông thấy cảnh này.

Duy-ma-cật nói với hội chúng

«Trong chư tôn giả, ai có thể đến đó để xin phẩm thực của đức Thế Tôn?»

Nhưng do oai thần của Văn-thù-sư-lợi nên hết thảy chư Bồ tát đều im lặng. Thấy vậy, Duy-ma-cật nói: 

«Nhân giả, đại chúng này há không thấy hỗ thẹn sao?»[7] 

Văn-thù-sư-lợi đáp lại: «Phật có dạy, không nên khinh thường người chưa từng học.»

Khi ấy, Duy-ma-cật vẫn không rời chồ ngồi, ở ngay trước đại chúng, dùng thần lực tạo ra một vị hóa Bồ tátthân tướng sáng ngời, oai nghiêm thù thắng bao trùm cả chúng hội, rồi nói với vị này: 

«Ông hãy đi lên phương trên, vượt qua bốn mươi hai Hắng hà sa cõi Phật, có quốc độ tên gọi là Chúng hương, có Phật hiệu Hương Tích, cùng với các Bồ tát vừa mới ngồi lại để thọ thực. Ông hãy đến chỗ đó, mang lời tôi mà thưa rằng, đảnh lễ Thế Tôn ở đó, thưa với ngài rằng: ‘Duy-ma-cật cúi đầu lễ dưới chân Thế Tôn, vô vàn tôn kính, và thăm hỏi sức khoẻ Thế Tôn, ít bệnh, ít não, khí lực an ổn chăng? Nguyện xin chút thức ăn dư của Thế Tôn, mang về thế giới Ta-bà[8] để làm Phật sự; để cho những ai hâm mộ Pháp nhỏ được mở rộng sang đường lớn, và cũng để cho cho danh hiệu Như Lai được lan truyền khắp nơi.’»

Sau đó hết thảy hội chúng đều nhìn thấy vị hóa Bồ tát ngay trước đại chúng bay lên phương trên, đến cõi Chúng hương, quỳ lạy dưới chân Phật ở đó, và lại nghe tiếng của hoá Bồ tát ấy nói, ‘Duy-ma-cật cúi đầu lễ dưới chân Thế Tôn, vô vàn tôn kính, và thăm hỏi sức khoẻ Thế Tôn, ít bệnh, ít não, khí lực an ổn chăng? Nguyện xin chút thức ăn dư của Thế Tôn, mang về thế giới Ta-bà để làm Phật sự; để cho những ai hâm mộ Pháp nhỏ[9] được mở rộng sang Đường lớn, và cũng để cho danh hiệu Như Lai được lan truyền khắp nơi.’» 

Chư Bồ tát ở cõi đó trông thấy vị hoá Bồ tát này, tán thán là chưa từng có, tự hỏi không biết Thượng nhân này từ đâu đến? Thế giới Ta-bà ở chỗ nào? Thế nào gọi là những người hâm mộ pháp nhỏ? Các ngài liền hỏi Phật. Phật nói:

«Có một thế giới tên là Ta-bà, nằm ở phương dưới cách đây vô số quốc độ bằng số cát của bốn mươi hai sông Hằng. Ở đó có đức Phật hiệu Thích-ca-mâu-ni hiện đang ở giữa cõi đời xấu xa đầy năm điều uế trược[10] mà phô diễn đạo giáo cho chúng sinh ưa thích pháp nhỏ. Ở đó còn có vị Bồ tát tên là Duy-ma-cật đã an trụ giải thoát bất khả tư nghì đang giảng Pháp cho chư vị Bồ tát. Cho nên ông ấy đã tạo ra một vị hóa sứ giả để tán dương danh xưng và quốc độ này của Ta khiến các Bồ tát kia thêm phần công đức

Chư Bồ tát lại hỏi: 

«Vị đó là ai mà có thể biến hoa như vậy, có đức lực vô úythần túc lớn đến vậy?»

Đức Thế Tôn đáp: 

«Lớn lao thay! Ông ấy thường gởi các hóa sứ giả đến khắp mười phương quốc độ để thi hành Phật sự vì lợi ích của chúng sinh

Nói xong, đức Hương Tích Như lai lấy một cái bát làm bằng các loại hương chứa đầy cơm thơm rồi trao cho vị hoá Bồ tát. Khi ấy, chín triệu Bồ tát ở đó đều lên tiếng nói:

«Chúng con muốn đến thế giới Ta-bà để đảnh lễ Phật Thích-ca, thăm Duy-ma-cật cùng chư vị Bồ tát ở đó.»

Phật Hương Tích dạy: 

«Có thể đi. Nhưng hãy thu lại mùi hương nơi thân của các ông để chúng sinh ở đó không sanh mê hoặc tham đắm. Các ông cũng nên thay đổi hình tướng mình, chớ để cho những người cầu đạo Bồ tátquốc độ đó xấu hổ, tự ty. Các ông cũng chớ có ý nghĩ khinh thường họ mà gây chướng ngại. Vì sao? Vì mười phương quốc độ đều như hư không. Vả lại, hết thảy chư Phật vì muốn giáo hóa người hâm mộ pháp nhỏ nên chưa hoàn toàn hiển bày quốc độ thanh tịnh đó thôi.»

Lúc ấy, vị hóa Bồ tát nhận bát cơm thơm rồi cùng chín triệu Bồ tát kia, nương theo thần lực của Phật và của Duy-ma-cật, biến mất khỏi cõi thế giới ấy, trong phút chốc đều về đến nhà Duy-ma-cật.

Duy-ma-cật dùng thần lực biến hoá nên chín triệu tòa sư tử, trang nghiêm như đã nói trước. Các Bồ tát đều ngồi lên đó. 

Bấy giới hóa Bồ tát trao cho Duy-ma-cật bát cơm thơm mà mùi hương lan tỏa khắp thành Tỳ-da-ly, rồi lan khắp ba nghìn đại thiên thế giới.

Các bà-la-môn, cư sỹ trong thành Tỳ-da-ly ngửi được mùi hương ấy đều thấy thân ý thơ thới, đồng ca ngợi sự hiếm có này. Lúc ấy, vị đứng đầu các trưởng giả tên là Nguyệt Cái[11] liền dẫn tám mươi bốn ngàn người đến nhà Duy-ma-cật. Thấy có rất nhiều Bồ tát ngự trên các tòa sư tử trang nghiêm, họ mừng rỡ, cung kính đảnh lễ chư Bồ tát và các vị đại đệ tử của Phật, rồi đứng sang một bên. Chúng quỷ thầnchư thiên khắp các cõi trời thuộc Dục giớiSắc giới ngửi được mùi hương cũng tìm đến.

Lúc ấy, Duy-ma-cật mới nói với Xá-lợi-phất và các vị Thanh-văn: 

«Các Nhân giả, nay mời các vị dùng món cơm có hương vị cam lộ. Cơm này được xông ướp bằng hương Đại bi của Như Lai. Đừng ăn cơm bằng ý hữu hạn,[12] vì như vậy sẽ khó thể tiêu hóa được.»

Có một vị Thanh-văn nghĩ rằng, «Cơm này ít; mà đại chúng thì đông. Mỗi người đều ăn, làm sao đủ?» Vị hóa Bồ tát liền nói: 

«Đừng lấy đức nhỏ và trí nhỏ của Thanh-văn đo lường phước huệ vô lượng của Như Lai. Nước của bốn đại dương còn có thể cạn, chứ cơm này vô tận. Nếu mọi người[13] đều vo cơm thành viên lớn như núi Tu-di, ăn cho đến một kiếp[14] vẫn chưa hết cơm. Tại sao? Vì đó là thức ăn còn dư của người[15] đã thành tựu công đức của vô tận giới, định, huệ, giải thoátgiải thoát tri kiến; do vậy, không bao giờ cùng tận.”

Bấy giờ, bát cơm này khiến cho cả đại chúng đều no đủ mà vẫn không vơi. Các Bồ tát, Thanh-văn, trời và người, những ai dùng cơm này đều cảm thấy an lạc như chư Bồ tát ở hết thảy quốc độ Lạc trang nghiêm.[16] Từ chân lông họ tỏa ra mùi thơm vi diệu như mùi thơm các loài cây trên cõi Chúng hương.

Bấy giờ Duy-ma-cật hỏi các Bồ tát từ Chúng hương đến: 

«Hương Tích Như lai giảng dạy bằng Pháp gì?»

Họ đáp: 

«Như Lai ở quốc độ chúng tôi không dùng ngôn tự để giảng thuyết mà chỉ dùng các hương thơm khiến cho trời và người có thể thâm nhập luật hành.[17] Mỗi mỗi Bồ tát ngồi dưới những cội cây hương, cảm nhận mùi hương vi diệu của cây mà chứng tam-muội đức tạng.»[18]

Đoạn các Bồ tát lại hỏi Duy-ma-cật: 

«Đức Thế Tôn Thích-ca-mâu-ni Phật giảng Pháp như thế nào?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Chúng sinh trên cõi này cang cường, khó chuyển hóa, nên Phật thuyết bằng ngôn ngữ cang cường để điều phục họ. Ngài nói răng, ‘Đây là địa ngục; đây là súc sinh; đây là ngạ quỷ; đây là các nạn xứ;[19] đây là những nơi tái sinh cho kẻ ngu muội;[20] đây là tà hành của thân; đây là quả báo cho tà hành của thân; đây là tà hành của miệng; đây là quả báo cho tà hành của miệng; đây là tà hành của ý; đây là quả báo cho tà hành của ý; đây là sát sinh; đây là quả báo của sát sinh; đây là sự lấy của không được cho; đây là quả báo của sự lấy của không được cho; đây là tà dâm; đây là quả báo của tà dâm; đây là vọng ngữ; đây là quả báo của vọng ngữ; đây là nói hai lưỡi; đây là quả báo của sự nói hai lưỡi; đây là ác khẩu; đây là quả báo của ác khẩu; đây là sự nói lời vô nghĩa; đây là quả báo của sự nói lời vô nghĩa; đây là tham lam; đây là quả báo của sự tham lam; đây là thù hận; đây là quả báo của sự thù hận; đây là tà kiến; đây là quả báo của tà kiến; đây là sự keo kiệt; đây là quả báo của sự keo kiệt; đây là sự huỷ giới; đây là quả báo của sự huỷ giới; đây là sự sân hận; đây là quả báo của sự sân hận; đây là sự lười biếng; đây là quả báo của sự lười biếng; đây là loạn ý; đây là quả báo của sự loạn ý; đây là sự ngu si; đây là quả báo của sự ngu si; đây là kết giới;[21] đây là quả báo của kết giới; đây là trì giới;[22] đây là phạm giới;[23] đây là điều nên làm; đây là điều không nên làm;[24] đây là sự chướng ngại; đây là sự không chướng ngại; đây là đắc tội; đây là không đắc tội; đây là dứt tội; đây là tịnh; đây là cấu uế; đây là hữu lậu; đây là vô lậu; đây là tà đạo; đây là chánh đạo; đây là hữu vi; đây là vô vi; đây là thế gian; đây là niết-bàn. Vì tâm tánh người khó chuyển hóa giống như vượn khỉ nên phải bằng nhiều phương cách giáo hóa để điều phục họ. Cũng như voi ngựa nếu không đánh đau thì không chế ngự được, những người mê muội trong thế gian này chỉ có thể thâm nhập luật bằng tất cả những lời gay gắt

Nghe xong, các Bồ tát đều khen: 

«Thật chưa từng nghe. Đức Thế Tôn Thích-ca-mâu-ni Phật đã ẩn đi vô lượng năng lực tự tại, hoá độ chúng sinh bằng pháp mà người nghe ưa thích. Các Bồ tát ở đây cũng nhẫn nại những khó nhọc, bằng vô lượng đại bi mà sinh nơi cõi Phật này.»

Duy-ma-cật nói: 

«Thật đúng như vậy. Chư Bồ tát ở cõi này có tâm đại bi kiên cố đối với chúng sinh. Việc làm lợi ích hết thảy chúng sinh của họ trong một đời hơn cả những người ở các cõi khác đã làm trong hàng trăm ngàn kiếp. Vì sao vậy? Vì họ đã thực hành mười thiện pháp mà các cõi Tịnh độ khác không có. Mười thiện pháp đó là gì? Đó là: Lấy bố thí đối trị bần cùng. Lấy trì giới đối trị phạm giới. Lấy nhẫn nhục đối trị sân nhuế. Lấy tinh tấn đối trị giải đãi. Lấy thiền định khắc phục loạn ý. Lấy trí tuệ dẹp tan vô minh. Nói pháp trừ nạn độ người khổ trong tám nạn. Dạy pháp Đại thừa cho người còn chấp pháp Tiểu thừa. Lấy thiện căn giúp người vô đức. Thường dùng bốn nhiếp pháp để thành tựu chúng sinh. Đó chính là mười thiện pháp

Chư Bồ tát lại hỏi: 

«Bồ tát thành tựu bao nhiêu pháp để ở trong thế giới này tu hành mà không ung nhọt, tái sanh tịnh độ?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Bồ tát thành tựu tám pháp để ở trong thế giới này tu hành mà không ung nhọt, tái sanh tịnh độ. Đó là: Làm lợi ích chúng sinh không cầu báo đáp. Chịu thay chúng sinh hết thảy khổ não, và hồi hướng công đức đã làm cho chúng sinh. Tâm bình đẳng với chúng sinh bình đẳng, khiêm hạ vô ngại. Tôn kính chư Bồ tát như đối với chư Phật.[25] Khi nghe kinh chưa từng nghe cũng không khởi nghi hoặc. Không đối nghịch với pháp của hàng Thanh-văn. Không ganh tị vì người được cúng dường, không tự cao lợi đắc của mình, trái lại ở đó tự chế ngự tâm mình. Thường tự xét kỗi mình,[26] không tranh tụng sở đoản của người, nhất tâm cầu thành tựu mọi công đức. Đó chính là tám pháp

Sau khi Duy-ma-cật và Văn-thù-sư-lợi thuyết các pháp như vậy, hàng trăm ngàn chư thiên đã phát tâm cầu giác ngộ tối thượng, và mười ngàn vị Bồ tát đắc vô sanh pháp nhẫn

 

[1] VCS (T38n1782_p1094a04): «Tiểu thừa tám giải thoat trừ tham dục. Đại thừa tám giải thoát trừ định chướng.»

[2] Nhập tam-muội. VCX: nhập vi diệu tịch định 入微妙寂定.

[3] Chúng hương 眾香. VCX: Nhất thiết diệu hương 一切妙香. 

[4] Hương Tích 香積. VCX: Tối Thượng Hương Đài 最上香臺. 

[5] VCX: không có danh xưng của hai thừa.

[6] Chi Khiêm: Hương Tịnh 香淨.

[7] VCX: Duy-ma-cật nói nói Văn-thù, «Sao ngài không gia hộ đại chúng này, khiến cho phải như vậy?» (để cho đại chúng phải im lặng)

[8] Ta-bà thế giới 娑婆世界. VCX: Kham nhẫn thế giới 堪忍世界. Skt. Saha-loka-dhātu.

[9] Lạc tiểu pháp giả 樂小法者; La-thập: «Biệt bản nói, lạc thiểu chi nhân 樂少之人.»

[10] Ngũ trược ác thế 五濁惡世. Skt. pañca kaṣāyāḥ: āyus-kaṣāyaḥ (mạng trược), dṛṣṭi-kaṣāyaḥ (kiến trược), kleśa-kaṣāyaḥ (phiền não trược), sattva-kaṣāyaḥ (chúng sanh trược), kalpa-kaṣāyaḥ (kiếp trược).

[11] Trưởng giả chủ Nguyệt Cái 長者主月蓋. La-thập: «Nước này không có Vua. Chỉ có 500 cư sỹ cùng trị nước.» Theo tài liệu Pali, bộ tộc Licchavī, mà thủ phủ là Vesāli (Tỳ-da-ly), tổ chức chính quyền của họ theo chế độ Cộng hoà thị tộc. Các thủ lĩnh của họ đều được gọi là rājā (vương). VCX: Ly-chiêm-tỳ vương Nguyệt Cái 離呫毘王月蓋 .

[12] Hạn ý 限意 . VCX: thiểu phần hạ liệt tâm hành 少分下劣心行 , tâm tư thấp kém hạn hẹp.

[13] VCX: «Nếu hết thảy hữu tình trong vô lượng đại thiên thế giới

[14] VCX: «Một kiếp hoặc một trăm kiếp.»

[15] VCX: «Thức ăn còn dư của Như lai, xuất sinh từ vô tận giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến

[16] Lạc trang nghiêm quốc 樂莊嚴國. Skt. Sukhāvati-vyūha, tức Thế giới Cực lạc. VCS (T38n1782_p1096a27): “Đây không chỉ riêng thế giới Cực lạcTây phương, mà chỉ tất cả thế giới an lạc trong mười phương.”

[17] Đắc nhập luật hành 得入律行 . VCX: giai tất điều phục 皆悉調伏, thảy đều được chế ngự .

[18] Nhất thiết đức tạng tam muội 一切德藏三昧. VCX: Nhất thiết đức trang nghiêm định 一切德莊嚴定.Skt. sarvaguṇavyūha-samādhi. Chi Khiêm: Nhất thiết hương đức định 一切香德定.

[19] Nạn xứ 難處. VCX: Vô hà sanh 無暇生. Đây chỉ 8 trường hợp không sinh gạp thời có Phật, không thể tu tập phạm hạnh.

[20] VCX: đây là căn khuyết (khuyết tật).

[21] VCX: những điều sở học và vi phạm sở học.

[22] VCX: trì biệt giải thoát.

[23] VCX: phạm biệt giải thoát.

[24] Có nhảy sót trong bản La-thập; VCX: «Đây là du già; đây là phi du già; đây là sự vĩnh viễn đoạn trừ; đây là phi vĩnh viễn đoạn trừ.»

[25] VCX: «Tự chế ngự tâm kiêu mạn, kính trọng chúng sinh như kính trọng Phật.»

[26] VCX: điều 7: «Bồ tát chế ngự tự tâm, thường xét lỗi mình, không chê bai vi phạm của người.» Điều 8: «Bồ tát luôn luôn không buông lung ở trong pháp thiện; thường vui thú tầm cầu tinh tấn tu hành pháp Bồ đề phần
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15813)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11120)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53745)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13038)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16614)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15474)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19221)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 20003)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15606)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15395)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15203)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20433)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 24073)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15559)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13086)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20290)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13331)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29054)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11759)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18370)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16700)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13285)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12861)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13298)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13055)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12930)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13060)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13608)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11775)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14304)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17812)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22679)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13486)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14409)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105893)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14657)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19859)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38496)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15584)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34768)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16125)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11402)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15730)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14090)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13770)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12576)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19450)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27087)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13187)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13539)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21691)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18035)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21989)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14269)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16135)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16202)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19173)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24875)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant