Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

VI. Tóm kết

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14856)
VI. Tóm kết

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

TỔ SƯ THIỀN

VI. TÓM KẾT

Tóm lại, Tổ Sư Thiền chân thật quyết không nằm trên chữ nghĩa danh từ, trên tiếng hét, cây gậy, không thuộc kia đây. Còn mang cái thấy sai biệt kia đây trong đầu, là còn đi trên con đường sai biệt của sanh diệt, chưa thể vào trong nhà Tổ.

Tông chỉ “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự” mà Tổ sư đã nêu cao, vốn ngầm chỉ: "việc ấy sẵn ở ngay tâm người, trong chính mình đây thôi, không có ở đâu khác." Trên THỂ mà nói, quyết chắc ai ai cũng đều có phần, khéo nhận thì đầy đủ, đều cảm thông không phải lý luận nhiều. Đến trong ấy thì chỗ thấy không hai. Trái lại, nếu người còn có chỗ thấy sai biệt, tức còn phải xét lại! Tổ Lâm Tế từng bảo: “Chỗ thấy của sơn tăng hiện nay chẳng khác Phật Tổ.” Nếu ai đã tự cho mình là ngộ, đã sáng mà còn chia đây là chỗ thấy của Phật, đây là chỗ thấy của Tổ, đây là chỗ thấy của ta, mỗi cái cách biệt nhau thì biết ngay chỗ ngộ đó có thật thấu triệt chưa?

Đây, chúng ta hãy nghiệm kỹ đoạn nhân duyên này:
Tăng hỏi Thiền sư Ưng Phư Quảng Chiếu ở Trường Lô:
- Người xưa nói: “Như Lai Thiền thì cho là lão huynh hội, Tổ Sư Thiền vẫn chưa mộng thấy.” Chưa biết Như Lai Thiền với Tổ Sư Thiền là đồng hay khác?
Sư bảo:
- Một mũi tên bay qua Tân La.
Vị tăng nghĩ ngợi, Sư liền hét.

Ông tăng này cũng có hiểu biết về thiền nên dẫn lời Ngưỡng Sơn đến khám nghiệm Hương Nghiêm Trí Nhàn để hỏi. Vốn là Trí Nhàn ở Nam Dương nghe tiếng hòn sỏi văng trúng bụi tre vang ra tiếng liền đại ngộ, làm bài tụng “nhất kích vong sở tri, cánh giả bất tu trì…”. Quy Sơn nghe được liền nói với Ngưỡng Sơn:
- Kẻ này đã triệt.
Ngưỡng Sơn thưa:
- Đây là tâm cơ ý thức trước thuật được thành, hãy đợi con đích thân tự khám nghiệm qua mới biết.
Ngưỡng Sơn bèn đến gặp Trí Nhàn và hỏi:
- Hòa thượng khen ngợi sư đệ đã phát minh đại sự, hãy thử nói cho tôi nghe xem!
Trí Nhàn thuật lại bài tụng trước cho Ngưỡng Sơn nghe, Ngưỡng Sơn bảo:
- Đó là do trước khi học tập ghi nhớ mà thành, nếu thực tế có chánh ngộ hãy nói lại bài khác xem!

Trí Nhàn nói ngay bài tụng:
  Khứ niên bần vị thị bần
Kim niên bần thủy thị bần
Khứ niên bần du hữu trác chùy chi địa
Kim niên bần chùy dã vô.

Nghĩa:

 Năm trước nghèo chưa phải nghèo
Năm nay nghèo mới thật nghèo
Năm trước nghèo còn có đất cắm dùi
Năm nay nghèo dùi cũng không.

Ngưỡng Sơn nghe xong bảo:
- Như Lai Thiền thì sư đệ hội, Tổ Sư Thiền thì vẫn chưa mộng thấy.
Trí Nhàn lại nói bài tụng:

 Ngã hữu nhất cơ
Thuấn mục thị y
Nhược nhân bất hội
Biệt hoán sa di.

Nghĩa:

 Ta có một cơ
Chớp mắt nhìn y
Nếu người chẳng hội
Riêng gọi Sa di.

Ngưỡng Sơn gật đầutrở về báo cho Quy Sơn.

- Hãy mừng sư đệ Nhàn đã lãnh hội Tổ Sư Thiền.

Như vậy đã ngộ Như Lai Thiền sao còn chưa ngộ Tổ Sư Thiền? Chính chỗ này khiến cho người đứng bên ngoài luôn thắc mắc không hiểu nổi. Ông tăng này cũng ở trong trường hợp đó. Song hỏi như thế là rơi vào cái lưới ngôn ngữ của người xưa rồi. Đâu ngờ, chính đây là thủ thuật khéo léo của Ngưỡng Sơn dùng khám nghiệm Trí Nhàn, không cho ý thức lanh lợi bắt kịp. Với Thiền sư Ưng Phu Quảng Chiếu thì đâu dễ bị câu “đồng hay khác” lừa gạt được! Cho nên ông tăng hỏi đồng khác, Sư liền bảo: “Một mũi tên bay qua Tân La.” Nghĩa là, ông vừa nghĩ đồng khácxa mất hút rồi. Còn có niệm đồng khác là vẫn còn chưa mộng thấy Tổ sư. Quên niệm đồng khác thì Tổ sư hiện ngay trong mắt! Người mắt sáng chớ để bị lừa trong ấy!

Để tóm kết lại, xin nhắc đoạn nhân duyên của Thủ tọa Linh Thao với Hòa thượng Lặc Đàm. Sư tham thiền với Hòa thượng Lặc Đàm thời gian lâu, một hôm Lặc Đàm hỏi:
- Tổ sư từ Ấn Độ sang, riêng truyền tâm ấn, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, ông làm sao lãnh hội?
Sư thưa:
- Con chẳng lãnh hội.
Lặc Đàm hỏi:
- Khi ông chưa xuất gia đã làm việc gì?
Sư thưa:
- Chăn trâu.
Lặc Đàm hỏi:
- Làm sao chăn?
Sư thưa:
- Sáng sớm cưỡi đi ra, chiều tối lại cưỡi về.
Lặc Đàm bảo:
- Ông rất tốt, chẳng hội!
Sư liền đã ngộ.

Ồ! Mỗi người chân thật tự kiểm điểm lại xem, chính mình có giống như thế chăng? Kìa, ngày ngày cứ sáng sớm thức dậy liền cưỡi trâu đi ra rửa mặt, súc miệng, rồi húc đông, húc tây, giẫm vào cỏ mạ của người. Chiều tối lại cưỡi trâu về ngủ. Ngày nào cũng như ngày nấy, đều đặn như vậy không sót một bữa, vậy còn chưa ngộ nữa sao? Cứ cưỡi đi ra, rồi cưỡi về mãi để làm gì? Không chán sao? Có lúc nào cưỡi đụng Tổ sư chăng? Rất tốt, như thế mà chẳng hội!

Có ai đã thấy Tổ Sư Thiền chưa? Tuy nhiên, từ trước đến nay đã nói quá nhiều. Nếu thẳng thắn thì hỏi: -Tổ Sư Thiền là gì? Chỉ bảo: -Tham đi! Là xong. Ai còn thắc mắc thì cứ đi gặp Tổ sư mà hỏi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49767)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34645)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33462)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43944)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57096)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47580)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39428)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38489)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52960)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36614)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32252)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40498)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43505)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31476)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46719)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36218)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28717)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29257)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31904)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28847)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33386)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29161)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60999)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39789)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26696)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29691)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37404)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40107)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26858)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42689)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37292)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28306)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28907)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26410)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27177)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26201)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34693)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27827)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30491)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33304)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28575)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30085)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25495)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21858)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51328)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26741)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28637)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27724)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24367)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27471)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31962)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30198)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27720)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35478)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27470)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30027)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31796)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23039)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24194)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23042)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant