Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Mười: Ba Tiếng Hét Của Mục Châu

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15392)
Tắc thứ Mười: Ba Tiếng Hét Của Mục Châu

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ MƯỜI

BA TIẾNG HÉT CỦA MỤC CHÂU 

 

THÙY: Như vầy như vầy, không như vầy không như vầy. Luận việc chiến, ai cũng nắm chỗ then chốt. Cho nên mới có câu nói, “Nếu như hướng thượng mà đi, thì ngay cả Thích Ca , Di Lặc, Văn Thù, Phổ Hiền, ngàn vạn bậc thánh, và các bậc tông sư trong thiên hạ đều phải ngậm miệng ấm ức cả. Nếu hướng hạ mà đi, thì côn trùng giòi bọ cùng tất cả mọi sinh vật đều phóng đại quang minh, mọi vật đều vươn mình như núi cao vạn trượng.” Nếu như không hướng thượng mà cũng cũng không hướng hạ thì sao? Nếu có nguyên tắc thì dựa vào nguyên tắc, nếu không có nguyên tắc dựa vào thông lệ. Thử nêu ra xem.

CỬ: Mục Châu hỏi ông tăng, “Ông mới từ đâu đến vậy?” Ông tăng bèn hét. Mục Châu nói, “Lão tang bị ông hét một lần.” Ông tăng lại hét nữa. Mục Châu nói, “Ba bốn tiếng hét, sau đó thì sao?” Ông tăng không nói gì được. Mục Châu bèn đánh rồi nói, “Cái gã vô tích sự này.”

BÌNH: Bất cứ ai muốn chống giữ tông môn của chúng ta đều cần phải có đôi mắt của bậc tông sư cũng như khả năng của bậc tông sư. Mục Châu linh hoạt sắc bén, như thể điện chớp, thích thử mấy vị tòa chủ. Thường thì một lời hay nửa câu mà thầy ta thốt ra , đều giống như các bụi gai góc, không thể nào mà dẫm chân sờ tay vào được. Mỗi khi có ông tăng nào đến liền nói, “ Công án đã thành, tha cho ông ba chục gậy.’ Hoặc thấy có ông tăng nào đến, Mục Châu liền gọi, “Thượng tọa!” Ông tăng vừa quay lại, Mục Châu lại nói, “Đồ khiêng gỗ”. Mỗi lúc dạy chúng lại thường nói, “ Chưa có chỗ vào, cần phải tìm chỗ ra chỗ vào. Đã có chỗ vào rồi, không được phụ lòng lão tăng.” Mục Châu vì người khác thường là như vậy cả.

Ông tăng này cũng điêu luyện lắm, có điều đầu rồng đuôi rắn. Lúc ấy nếu không phải là Mục Châu bất cứ người nào khác hẳn đã bị ông ta làm cho lúng túng một phen rồi. Chẳng hạn như lúc Mục Châu hỏi ông ta, “Ông mới từ đâu đến vậy?” Ông tăng bèn hét. Thử hỏi xem, ý ông ta là thế nào? Song lão hán này lại chẳng vội vàng mà vẫn thong thả nói, “ Lão tăng bị ông hét một lần.” Tựa như một mặt chấp nhận lời ông tăng một mặt thử thách ông ta, nghiêng mình nhìn xem ông ta như thế nào. Một lần nữa ông tăng lại hét, ông ta có vẻ đúng song thật ra lại chẳng đúng. Ông ta kể như đã bị Mục Châu xỏ lỗ mũi khi lão hán này hỏi, “ Ba bốn tiếng hét , sau đó thì sao?” Ông tăng này quả nhiên không nói gì được. Mục Châu bèn đánh rồi nói, “ Cái gã vô tích sự này.”

Thử người rốt ráo thật, há miệng đã tri âm. Đáng tiếc thay, ông tăng này lại không nói được gì, khiến Mục Châu phải gọi ông ta là gã vô tích sự. Nếu như các ông bị Mục Châu hỏi, “ Ba bốn tiếng hét, sau đó thì sao?” Các ông phải trả lời thế nào để khỏi bị Mục Châu gọi là đồ vô tích sự? Nếu như là bậc biết còn mất, phân biệt được đúng sai, chân đứng trên sự thật, ai thèm lo sau ba bốn tiếng hét thì sao. Song chỉ vì ông tăng này không nói gì được, cho nên mới bị lão hán này dựa trênkết thúc được cho nên mới bị lão hán này dực trên các dữ kiệnkết thúc công án. Thử lắng nghe tụng của Tuyết Đậu xem.

TỤNG: 

Hai hét với ba hét,

Thành thạo biết cơ biến.

Nếu như cưỡi lưng cọp,

Cả hai thành ra mù.

Ai mù đâu?

Nêu lên cho cả thiên hạ xem!

BÌNH: Tuyết Đậu luôn luôn đặc biệt vì người khác. Nếu như không phải là một chuyên gia hẳn thầy ta đã chỉ hét lung tung. Có lúc một tiếng hét không dùng như một tiếng hét, có lúc một tiếng hét dùng như một tiếng hét, có lúc một tiếng hét như sư tử ngồi xổm, có lúc một tiếng hét như Kim Cương Bảo Kiếm.” Hưng Hóa nói, “Tôi thấy các ông dưới hiên đông cũng hét, dưới mái tây cũng hét, hét loạn xà ngầu để làm cái gì? Lâm Tế nói, “Tôi nghe nói các ông bắt chước tôi hét, tôi thử hỏi các ông, đông đường có ông tăng bước ra, tây đường có ông tăng bước ra, cả hai ông tăng đều hét một tiếng, ai là chủ ai là khách? Nếu như các ông không phân biệt được chủ khách, từ rày về sau đừng bắt chước tôi hét nữa.

Cho nên Tuyết Đậu tụng rằng, “ Thành thạo biết cơ biến.” Ông tăng kia tuy bị Mục Châu bao vây, song cũng vẫn còn biết chỗ cơ biến. Thử nói xem, chỗ nào là chỗ ông tăng kia biết chỗ cơ biến? Lộc Môn Trí Thiền Sư phê bình ông tăng này rằng, “ Người biết Pháp sự?” Nham Đậu nói,” Luận việc chiến, ai cũng nắm then chốt.” Hoàn Long Tâm nói, “Cùng tắc biến, biến tắc thông”.[29] Đây chính là chỗ mà các tổ sư làm cho người trong thiên hạ phải líu lưỡi. Nếu như các ông là người hiểu cơ biến thì vừa nêu lên đã hiểu ngay chỗ cốt yếu.

Có lắm kẻ nói, “cần phải bận tâm đến việc Mục Châu nói ba bốn tiếng hét làm gì, cứ tiếp tục hét. Nói gì hai chục ba chục tiếng hét, cứ việc hét cho đến khi Phật Di Lặc hạ sinh, gọi là cưỡi lưng cọp. Nếu các ông có tri kiến như thế, tức là chẳng hiểu Mục Châu. Dù cho muốn hiểu ông tăng kia đi nữa, các ông cũng quá xa vời. Giống như người cưỡi lưng cọp, cần phải trong tay có đao cũng như biết uyển chuyển thì mới được.

Tuyết Đậu nói nếu như thế thì “ cả hai thành ra mù.” Tuyết Đậu giống như thanh ỷThiên trường kiếm, uy phong lẫm lẫm. Nếu như hiểu được ý của Tuyết Đậu tự nhiên hiểu được ngàn điều vạn điều cùng một lúc. Lúc ấy sẽ thấy rằng phần cuối tụng của Tuyết Đậu chỉ là cước chú mà thôi. Lại nói, “ Ai mù đâu?” Chủ mù hay là khách mù? Chứ không phải là chủ khách đều cùng mù sao? Tôi xin nêu ra để người trong thiên hạ cùng thấy.” Đây chính là chỗ sống động, Tuyết Đậu một lúc tụng ra luôn. Nhưng mà tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Nêu lên cho cả thiên hạ xem?” Thử nói coi, các ông xem như thế nào? Nhắm mắt cũng được, mở mắt cũng được, song còn có ai tránh được chăng?
 
 

[1] “Thánh đế đệ nhất nghĩa”. Triết học Phật giáo phân biệt hai sự thật (satyadvaya,nhị đế), (a) paramàrtha (chân đế, hay đệ nhất nghĩa đế) tức là sự thật cứu cánh, thuộc phạm vi (gocàra) của trí giác ngộ, (b) samvrtisatya (tục đế) hay sự thật công ước, thuộc phạm vi của tri thức thường tình. Chữ Phạn Satya trong trường hợp này có thể dịch là “thực tại” (reality).

[2] Ở đây chúng tôi theo bản của Ito Yuten. Bản của Cổ Phương Thiền Sư không có chữ “Phật”.

[3] Nhị Tổ tức Huệ Khả hay Thần Quang. Về tiểu sử của Huệ Khả xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, cùng một dịch giả sẽ xuất bản.

[4] Kinh Phóng Quang Bát Nhã (Pancavimsatisahàsrikàpraj-nàparàmità), một trong những bản kinh quan trọng của Bát Nhã Bộ. xem Taishò 221.

[5] “Tất dũng”: cái thùng đen. Chữ trong Thiền học ám chỉ sự vô minh.

[6] Bản của Cổ Phương Thiền Sư không có đoạn này.

[7] Bản của Cổ Phương Thiền Sư: “ toại bất phục cứu” có vẻ đúng hơn.

[8] Ở đây chúng tôi theo bản của Cổ Phương Thiền Sư

[9] Tam Tổ tức Tăng Xán .Về tiểu sử xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[10] Nguyên văn “đả thành nhất phiến”, ngụ ý không còn phân biệt giữa tâm và cảnh, nhân và ngã.

[11] Tức Mã Tổ Đạo Nhất, về tiểu sử xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[12] Theo Phật danh Kinh thì trong một ngàn vị Phật thuộc hiền kiếp vị Phật thứ hai trăm lẻ hai tên là Nguyệt Diện Phật, còn vị Phật thứ tám trăm năm mươi tám tên là Nhật Diện Phật.

[13] Kinh Kim Cương (Vajracchedikàprajnàpàramità Sùtra) cũng là một kinh quan trọng thuộc Bát Nhã Hệ.

[14] Tâm là chủ của vạn pháp” có thể so sánh với kệ số 1 trong Dhammapada: Manopubbángamà dhammà manosetthà manomayà, manasà ce padutthena bahàsati va karoti và tatonam dukkham anveti cakkam va vahato padam.(xem V,Fausboll. The Dhammapada. London: Luzac & Co.1900 trang 3).

[15] Tào Khê là nơi Lục Tổ Huệ Năng cư ngụ, cho nên trong truyền thống Thiền chữ Tào Khê thường được dùng để chỉ Lục Tổ.

[16] Không Sinh tức là ngài Tu Bồ Đề (Subhuti).

[17] Thuấn-nhã-đa tức là dịch âm của chữ Phạn “sùyatà”có nghĩa là không.

[18] Có nghĩa là câu hỏi và câu trả lời trực tiếp chạm nhau như thể hai đầu mũi tên.

[19] Pháp môn của phái Thiền Tào Động.

[20] Pháp môn của phái Thiền Lâm Tế. Xin xem thêm trong Lâm Tế Lục, cùng một dịch giả, sắp xuất bản.

[21] Hai đoạn này không có trong bản của Cổ Phương Thiền Sư.

[22] “minh”.Bản của Ito Yeten: “viên” (viên mãn).

[23] Thỉnh ích, có nghĩa là tham khảo thêm với bậc thầy.

[24] Phần Dương Thiện Chiểu (947-1024) thuộc dòng Lâm Tế, có công trong việc tổng hợp các giáo lý của nhiều tông phái Thiền khác nhau..

[25] “Trần” có nghĩa là đối tượng của cảm quan.

[26] Bản của Cổ Phương Thiền Sư không có câu này.

[27] Thược-ca la phiên âm của chữ Phạn “súkla” có nghĩa là trong sạch.

[28] Theo bản của Ito Yuten: “ Phật đưa nắm tay lên hỏi, “mở hay đóng?”

[29] Lời nói từ Kinh Dịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13693)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25364)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13769)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15078)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17692)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17106)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14195)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13174)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14428)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19735)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16741)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18610)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19040)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18847)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21157)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14790)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39157)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14401)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19357)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14696)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16138)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14692)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15227)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14891)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15547)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39106)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14107)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24497)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14370)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19429)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17993)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21441)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19683)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17494)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14814)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13877)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14111)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21892)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16735)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15232)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14526)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14036)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14345)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15649)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14306)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15004)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18535)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24659)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23099)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28535)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15069)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14103)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14630)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18282)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26508)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15180)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14830)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15191)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15133)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant