Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bốn Mươi Ba: Không Nóng Không Lạnh Của Động Sơn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15718)
Tắc thứ Bốn Mươi Ba: Không Nóng Không Lạnh Của Động Sơn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 5

TẮC THỨ BỐN MƯƠI BA

KHÔNG NÓNG KHÔNG LẠNH CỦA ĐỘNG SƠN

 

THÙY: Câu định càn khôn, vạn thế cùng theo. Cơ bắt hổ tê, ngàn thánh không biện. Không chút tơ hào cản trở, toàn cơ hiện rõ khắp nơi. Muốn rõ búa trùy hướng thượng, cần ống bễ của chuyên gia. Thử nói xem từ xưa đến nay còn có gia phong nữa không? Xin nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng hỏi Động Sơn, “Khi lạnh với nóng đến, phải làm sao để tránh đây?” Động Sơn nói, “Tại sao ông không đến nơi nào không có nóng với lạnh đó.” Ông tăng nói, “Đâu là chỗ không có nóng với lạnh?” Động Sơn nói, “Lúc lạnh thì lạnh chết thầy, lúc nóng thì nóng chết thầy.”

BÌNH: Hoàng Long Tân hòa thượng niệm rằng, “Động Sơn để cổ áo lên tay áo, khoét ngực áo dưới nách. Song ông tăng này không chịu thì làm sao bây giờ?” Lúc ấy có ông tăng bước ra hỏi, “ Thử nói xem phải chi trì như thế nào?” Mãi lâu sau Hoàng Long mới nói, “Thiền định chẳng cần phải sông núi, tâm niệm diệt hết lửa tự lạnh.” Các ông thử nói xem, bẫy rập của Đông Sơn rơi ở chỗ nào? Nếu hiểu rõ được các ông mới biết được phương pháp ngũ vị hồi hỗ, chính thiên tiếp người của tông phái Động Sơn. Đạt đến cảnh giới hướng thượng này các ông mới có thể như vậy mà không cần có sự sắp xếp gì cả. Tự nhiên khế hợp. Cho nên mới có câu nói, “Chính trung thiên, tam canh đêm đầu trước trăng sáng, đúng là gặp nhau không biết nhau. Vẫn thầm ôm mối hiềm ngày xưa. Thiên trung chính, sáng sớm bà lão gặp kính xưa, thấy rõ mặt mày lại không thật, cho nhận lầm đầu mình trong gương. Chính trung lai, trong không có lối xuất trần ai, chỉ cần dừng phạm húy hiện nay, cũng hơn thời trước đoạt khẩu tài. Thiên trung chí, hai kiếm chạm nhau chẳng cần tranh, hảo thủ cũng tựa sen trong lửa, hiển nhiên tự có khí ngập trời. Kiêm trong đáo, không vướng hữu vô ai dám họa, ai nấy đều muốn vượt thường lưu, rốt cuộc lại về ngồi trong tro.”

Phú Sơn Lục Viện coi công án này là mẫu mực của ngũ vị. Nếu như hiểu được một, thì những cái kia tự nhiên trở thành dễ hiểu. Nham Đầu nói, “Giống như trái bầu trên mặt nước, ấn nó là nó xoay tròn mà chẳng cần phải vận dụng chút sức lực.”

Có ông tăng từng hỏi Động Sơn, “Lúc Văn ThùPhổ Hiền đến tham kiến thì như thế nào?” Động Sơn nói, “tôi lừa họ vào giữa đàn trâu.” Ông tăng nói, “Như thế thì hòa thượng sẽ xuống địa ngục nhanh như tên bắn.” Động Sơn nói, “Tôi được hết tất cả sức mạnh của họ.” Lúc Động Sơn nói, “Tại sao ông không đến chỗ nào không có lạnh với nóng.” Đó là thiên trung chính. Khi ông tăng hỏi, “Đâu là chỗ không có lạnh với nóng?” và Động Sơn nói, “ Lúc lạnh thì lạnh chết thầy, lúc nóng thì nóng chết thầy.” Đó là chính trung thiên. Tuy chính mà thiên, tuy thiên mà viên. Những điều này được ghi chép đầy đủ cả trong Tào Đông Lục. Nếu là trong tông môn của Lâm Tế thì không có nhiều sự việc đến thế. Loại công án này phải hiểu ngay lúc nêu lên thì mới được.

Có người nói, “Tôi rất thích không có lạnh không có nóng.” Người ấy nắm được chỗ nào? Cổ nhân nói, “Nếu như đi trên lưỡi kiếm thì nhanh, còn nếu dùng thiên kiến ra mà hiểu thì chậm.” Há không nghe có ông tăng hòi Thúy Vi, “Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Trúc qua?” Thúy Vi nói, “Để lúc nào không có ai đến tôi sẽ nói cho ông.” Rồi đi ra ngoài vườn. Ông tăng nói, “Ở đây không có ai cả, xin mời hòa thượng nói.” Thúy Vi chỉ khóm trúc nói, “Nhánh trúc này mới dài làm sao, nhánh trúc kia mới ngắn làm sao.? Ông tăng kia hốt nhiên đại ngộ.

Tào Sơn hỏi ông tăng, “Nóng như vậy phải đi đâu để tránh đây?” Ông tăng nói, “Vào trong vạc dầu lò than mà tránh.” Tào Sơn nói, “Làm sao mà tránh ở trong vạc dầu lò than được?” Ông tăng nói, “Các thứ khổ não không đến đó được.” Nhìn xem những người trong dòng của họ tự nhiên hiểu cách nói chuyện trong dòng của họ. Tuyết Đậu lấy việc trong nhà của họ ra mà tụng:

TỤNG

Thõng tay vẫn giống đỉnh vạn trượng,

Chính thiên hà tất phải an bài?

Điện cổ lưu ly chiếu trăng sáng,

Hàn Lô lăng xăng chạy lên thềm.

BÌNH: Trong Tào Động tôngxuất thế với không xuất thế, thõng tay với không thõng tay. Nếu không xuất thế mắt nhìn trời xanh. Nếu xuất thế thì đầu tro mặt bụi. “Mắt nhìn trời xanh” tức là “đỉnh cao vạn trượng”. “Đầu tro mặt bụi” tức là việc thõng tay. Có lúc “Đầu tro mặt bụi” là “ trên đỉnh vạn trượng”.Có lúc “đỉnh cao vạn trượng là “Đầu tro mặt bụi.” Có lúc thõng tay vào chợ với đại dụng một mình trên đỉnh cao là một. Trở về nguồn hiểu rõ tính cũng không khác với trí sai biệt. Ky nhất là hiểu theo lối lưỡng nguyên. Cho nên Tuyết Đậu nói, “Thõng tay vẫn giống đỉnh vạn trượng.” Không có chỗ nào để các ông bám víu cả.” Chính thiên hà tất phải an bài?” Khi đến chỗ dụng ắt tự nhiên như thế, chẳng ở nơi xếp đặt an bài. Đây là để tụng câu trả lời của Động Sơn.

Sau đó Tuyết Đậu lại nói, “Điện cổ lưu ly chiếu trăng sáng, Hàn Lô lăng xăng chạy lên thềm.” Đây là tụng việc ông tăng bám víu vào ngôn ngữ chạy đuổi theo lời nói của Động Sơn. Trong tông phái của Tào Động có mưòi tám loại ẩn du như “gái đá”, ngựa gỗ, “giỏ không đáy”, “ngọc sáng ban đêm”, ”rắn chết”, vân vân. Đại cương chỉ đểgiải minh chính vị. Lúc Động Sơn trả lời, “Sao không đến chỗ không có lạnh có nóng” giống như trăng sáng chiếu điện cổ lưu ly trông như thể có cái bóng tròn. Ông tăng hỏi, “Đâu là chỗ không có lạnh với nóng?” Giống như thể con Hàn Lô chạy theo hình tướng ! lăng xăng chạy lên bậc thềm để bắt bóng trăng kia. Động Sơn nói, “Lúc lạnh thì lạnh chết thầy, lúc nóng thì nóng chết thầy.” Ông tăng cũng giồng như con Hàn Lô chạy lên đến thềm rồi lại không còn thấy bóng trăng đâu nữa. “Hàn Lô” là do ở trong Chiến Quốc Sách mà ra. Theo sách ấy thì “đó là loại chó rất thông minh của họ Hàn. Loại thỏ trong núi rất là khôn ngoan, chỉ có loại chó này mới bắt được loại thỏ ấy.” Tuyết Đậu dẫn tích này ra để ví dụ về ông tăng kia.

Còn như các ông, có biết chỗ vì người của Động Sơn chăng? Mãi lâu sau, Viên Ngộ mới nói, “Các ông kiếm thỏ gì vậy?”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13715)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25399)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13783)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15096)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17703)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17114)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14213)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13200)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14457)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19763)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16754)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18631)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19066)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18871)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21177)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14805)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39188)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14411)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19380)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14720)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16152)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14710)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15237)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14913)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15569)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39153)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14131)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24521)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14396)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19463)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18025)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21470)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19699)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17522)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14844)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13887)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13767)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14116)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21918)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16755)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15234)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14542)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14059)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14363)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15680)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14325)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15024)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18568)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24682)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23128)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28567)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15076)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14128)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14649)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18315)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26532)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15205)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14855)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15209)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15147)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant