Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bảy: Huệ Siêu Hỏi Về Phật

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15419)
Tắc thứ Bảy: Huệ Siêu Hỏi Về Phật

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ BẢY

HUỆ SIÊU HỎI VỀ PHẬT 

 

THÙY: Trước tiếng một câu, ngàn thánh không truyền. Chưa thấy rõ ra, như xa ngàn cõi. Dù cho ông có phân biện được nó trước khi có âm thanh thốt lên, làm tất cả thiên hạ phải líu lưỡi, ông vẫn chưa phải là một tay sắc bém. Cho nên mới nói rằng, “Trời không che hết, đất không chở nổi. Hư không không chứa nổi, trời trăng không chiếu được.”Chỗ không có Phật, mình được tôn xưng,mới bắt đầu một sợi lông, phóng đại quang minh, tung hoành ngang dọc, tự tại trong sự vật, bất cứ cái gì đụng tay vào, không có cái gì là không phải. Thử nói xem, đạt được cái gì mà lại kỳ đặc như thế? Lại nói, “Đại chúng có hiểu không?” Ngựa mệt thuở trước không ai biết, chỉ nói công lao chum cả trời. Bây giờ tạm gác việc này qua một bên, công án của Tuyết Đậu thì như thế nào? Xin thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng (Huệ Siêu) hỏi Pháp Nhãn, “Huệ Siêu xin hỏi hòa thượng , Phật là gì?” Pháp Nhãn nói, “Chú là Huệ Siêu.”

BÌNH: Pháp Nhãn có khả năng vừa đập vừa mổ, và lại biết sử dụng cái khả năng này cho nên mới đáp như thế được. Đó chính là siêu việt qua thanh sắc, đắc đại tự tại, túng đoạt sinh sát gì là ở nơi mình cả. Thầy ta quả thậtđặc sắc. Người ở các nơi bàn luận về công án này rất nhiều, số người lấy tri thức cảm quan ra hiểu nó cũng không phải là ít. Đâu có biết là mỗi khi cổ nhân dạy một câu hay một lời đều tựa như đá lửa điện chớp, mở thẳng ra một con đường chính.

Người đời sau chỉ dựa vào ngôn ngữ mà hiểu. Có kẻ nói, “Huệ Siêu chính là Phật cho nên Pháp Nhãn mới trả lời như thế.” Có người nói, “giống như thể đang cưỡi trâu mà lại đi tìm trâu.” Cũng có người nói, “Chính câu hỏi là vấn đề.” Những điều này có gì là nhằm nhò? Nếu hiểu như thế thì không những là tự phụ bạc mình mà còn làm khuất khúc cổ nhân biết mấy. Nếu như muốn thấy được trọn vẹn khả năng của Pháp Nhãn, ông phải là loại người bị đánh một gậy cũng không quay đầu, có răng như rừng kiếm miệng như bát máu, biết tìm lối về bên ngoài ngôn ngữ, thì mới có phần nào khế hợp. Nếu như ái nấy đều hiểu theo tri thức thường tình, thì cả trời đất này chỉ toàn là những kẻ làm diệt mất dòng dõi của Phật. Còn như Huệ Siêu giác ngộ ở đây, ấy là nhờ thầy ta lúc nào cũng quán chiếu tham cứu, cho nên chỉ nghe một lời là đã có thể như cái thùng bị đập lủng đáy.

Cũng như ông tăng giám viện Tắc tuy ở trong chúng hội của Pháp Nhãn song chưa từng xin nhập thất. Một hôm Pháp Nhãn hỏi ông ta, “Tại sao viện chủ không nhập thất?” Tắc đáp, “ Hòa thượng không biết là hồi ở với Thanh Lâm đệ tử có chứng được đôi chút sao?” Pháp Nhãn nói, “Ông thử kể lại cho tôi nghe xem.” Tắc nói, “Đệ tử hỏi Phật là gì?” Thanh Lâm nói “Bính Đinh đồng tử đến xin lửa.”Pháp Nhãn nói , “Lời hay lắm song tôi e rằng ông hiểu lầm. Thử nói gì nữa xem sao.” Tắc nói, “Bính Đinh là lửa, lấy lửa mà đi tìm lửa. Cũng như đệ tử đã là Phật rồi lại còn đi tìm Phật”.Pháp Nhãn nói, “ Quả nhiên là giám viện hiểu lầm rồi.” Tắc không vui mới thu dọn hành trang bỏ qua sông. Pháp Nhãn nói “ Người này nếu trở lại thì còn cứu được, nếu không trở lại thì không cứu được nữa.” Đến giữa đường Tắc tự suy gẫm: “người này là bậc thiện tri thức của năm trăm người, chẳng lẽ ông ta lại lừa mình sao?” Bèn trở lại, vào tham kiến Pháp Nhãn. Pháp Nhãn nói, “Ông cứ hỏi đi, tôi sẽ trả lời cho.” Tắc hỏi, “Phật là gì?”Pháp Nhãn nói, “Bính Đinh đồng tử đến xin lửa.”Nghe lời ấy Tắc bèn đại ngộ.

Thời buổi này có những kẻ trợn mắt làm như là hiểu. Cũng như câu nói: “không có vết thương đừng gây thương tích.” Loại công án này đối với những người có tham thiền từ lâu thì chỉ vừa mới nêu lên là đã hiểu ngay cốt yếu của nó. Trong dòng Thiền của Pháp Nhãn gọi loại công án này là “ tiễn phong tương trụ” (đầu mũi tên nhọn gặp nhau)[18].Họ không sử dụng phương phápngũ vị quân thần”[19]hay “tứ liệu giản”[20], mà chỉ nói về “tiễn phong tương trụ.” Đó chính là gia phong của Pháp Nhãn, trong một lời có thể thấy ngay hiểu ngay. Còn nếu như đi tìm trong ngôn ngữ rốt cuộc chẳng biết đâu mà rờ[21].

Pháp Nhãn ra mặt với đời đồ chúng có đến năm trăm người. Lúc ấy Phật pháp hưng thịnh vô cùng Thiều Quốc Sư tham học với Sơ Sơn đã lâu, tự cho là đắc ý chỉ của Sơ Sơn. Cho nên mới thu thập tất cả văn chương cùng với di ảnh của Sơ Sơn lãnh đạo một số đồ chúng đi hành cước. Đến nơi của Pháp Nhãn, chính Thiều không bao giờ nhập thất mà chỉ dạy cho đồ đề của mình túy theo những người khác mà nhập thất. Một hôm Pháp Nhãn thượng đường, có ông tăng hỏi, “Thế nào là một giọt nước từ Tào Khê?” Pháp Nhãn nói, “ Thì là một giọt nước từ Tào Khê.” Ông tăng hoang mang thối lui. Thiều Quốc Sư cũng có mặt trong chúng hộ, nghe thấy lời ấy hốt nhiên đại ngộ. Sau đó xuất hiện trên đời với tư cách là người thừa tự của Pháp Nhãn. Từng trình bày bài tụng rằng, “Đỉnh núi thông huyền , không phải nhân gian. Ngoài tâm không pháp, đầy mắt núi xanh.” Pháp Nhãn ấn khả rằng, “ Chỉ một bài tụng này thôi tự nhiên cũng đủ thừa lế tông phái của ta. Sau này thế nào ông cũng được các bậc vương hầu kính trọng, ta không bằng được ông”.

Hãy nhìn các bậc cổ nhân đạt giác ngộ như thế, rốt cuộc là gì vậy? Bảo sư núi tôi nói cho các ông đâu có đủ mà các ông cần phải tự mình suốt ngày tôi luyện tinh thần. Nếu các ông có thể đảm đương được như vậy, sau này các ông có thể thỏng tay vì người nơi ngã tư đường mà chẳng thấy gì là khó.

Cho nên khi ông tăng kia hỏi, “Huệ Siêu xin hỏi hòa thượng Phật là gì?” Pháp Nhãn nói, “Chú là Huệ Siêu.” Pháp Nhãn có chút gì phụ lòng ông tăng đâu? Không nghe Vân Môn nói sao? “ Nếu không xét, tức sai lầm. Toan so đo, đời nào ngộ?” Tuyết Đậu tụng hiển hách thật. Thử nêu lên xem!

TỤNG: 

Giang quốc gió xuân thổi không lên,

Chim sáo hót trong bụi hoa sầu.

Ba bực sóng cao cá hóa rồng,

Kẻ mê vẫn múc nước hồ đêm.

Tuyết Đậu đúng là tay thông thạo. Những cái khó nhai khó nuốt, khó thâu khó nhập của cổ nhân, thầy ta đều tung ra cho người khác thấy, kỳ đặc hết sức. Đã biết được then chốt của Pháp Nhãn lại nắm được cả cốt yếu của Huệ Siêu.Lại sợ người đời sau hiểu lầm lời lẽ của Pháp Nhãn, cho nên mới tụng ra. Ông tăng kia hỏi như vậy, Pháp Nhãn đáp như vậy, chính là “giang quốc gió xuân thổi không lên, chim sáo hót trong bụi hoa sâu.” Hai câu này chỉ là một câu. Thử nói xem, ý của Tuyết Đậu là ở đâu. Giang Tây Giang Nam thường có hai lối hiểu, cho nên nói “ Giang quốc gió xuân thổi không lên” là để tụng câu “ chú là Huệ Siêu.” Còn “chim sáo hót trong bụi hoa sâu” là để tụng các lời bàn tán huyên hoa của các phương, giống như thể tiếng chim sáo hót trong bụi hoa sâu. Song chẳng có gì là nhằm nhò cả. Đâu có biết rằng hai câu này của Tuyết Đậu chỉ là một câu. Không muốn có chỗ sơ hở nào cho nên mới nói với các ông, ngôn ngữ đã đến cùng cực, bao trùm trời đất. Ông tăng kia hỏi Phật là gì. Pháp Nhãn nói, “ chú là Huệ Siêu” Tuyết Đậu nói, “Giang quốc gió xuân thổi không lên, chim sáo hót trong bụi hoa sâu.” Nếu vào được chỗ này thì có thể lững thững lên trời cao.Nếu như ông dùng tri thức cảm quan mà hiểu thì ba đời sáu mươi kiếp cũng không xong.

Câu thứ ba và câu thứ tư của Tuyết Đậu quả là từ bi cùng tột vì người khác mà một lúc nói toạc ra. Siêu Thiền Sư nghe câu nói mà đại ngộ tức là “ba bực sóng cao cá hóa rồng, kẻ mê vẫn múc nước hồ đêm.” Cửa Vũ ba bực sóng, Mạnh Tân tức là Long Môn, Vũ Đế đục làm ba bực, ba ngày ba tháng. Lúc hoa đào nở, trời đất cảm ứng, có con cá vượt qua Long Môn trên đầu mọc sừng bờm râu tua bủa. cưỡi mây mà đi.Những con cá không nhảy qua sóng được thì bị điểm lên đầu mà trở về. Kẻ mê mờ lo nhai ngôn ngữ, giống y như là tát nước hồ ban đêm để bắt cá vậy. Đâu có hay rằng cá đã biến thành rồng đi mất hút rồi. Đoan hòa thượng tụng, “Một đồng tiền Đại Quang,mua được cái bánh rán. Ăn vào tới trong bụng lập tức không đói nữa.” Bài tụng này kỳ diệu lắm, chỉ có điều hơi vụng về. Tuyết Đậu tụng thật vi diệu, cho nên không bị mũi kiếm đâm vào tay. Giống như Tàng chủ Khánh hỏi, “Thế nào là “ba bực sóng cao cá hóa rồng”? Tôi cũng chẳng quan tâm, có điều tôi muốn hỏi ông, hóa thành rồng rồi bây giờ ở đâu?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13724)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25439)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13814)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15125)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17734)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17136)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14246)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13225)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14484)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19818)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16765)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18667)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19093)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18912)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21193)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14816)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39203)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14448)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19431)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14754)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16178)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14740)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15251)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14951)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15590)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39206)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14167)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24567)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14423)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19499)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18062)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21504)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19718)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17545)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14883)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13925)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13802)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14144)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21940)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16767)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15258)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14577)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14087)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14382)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15698)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14354)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15058)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18604)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24705)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23141)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28589)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15088)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14140)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14682)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18356)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26563)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15236)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14875)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15222)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15189)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant