Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Sáu Mươi Sáu: Nham Đầu Và “Từ Đâu Tới”

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15515)
Tắc thứ Sáu Mươi Sáu: Nham Đầu Và “Từ Đâu Tới”

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 7

TẮC THỨ SÁU MƯƠI SÁU

NHAM ĐẦU VÀ “TỪ ĐÂU TỚI”

 

THÙY:Giáp mặt đương cơ, đề cơ bẫy cọp; đánh thẳng đánh ngang, bầy sách lược bắt giặc. Sáng hợp tối hợp, buông cả nắm cả, biết chơi rắn độc- đều là việc của chuyên gia.

CỬ: Nham Đầu hỏi ông tăng, “Từ đâu tới?” Ông tăng nói, “Từ Tây Kinh tới.” Nham Đầu nói, “Sau nạn Hoàng Sào còn thu được kiếm sao?” Ông tăng nói, “Thu được.” Nham Đầu nghển cổ tới trước hét lên. Ông tăng nói, “Đầu thầy rụng rồi.” Nham Đầu bật cười ha hả.

Sau đó ông tăng kia đến gặp Tuyết Phong. Tuyết Phong hỏi, “Từ đâu tới?” Ông tăng nói, “Từ Nham Đầu tới.” Tuyết Phong nói, “Nham Đầu có lời dạy gì?” Ông tăng thuật lại câu chuyện trên. Tuyết Phong đánh cho ba mươi gậy rồi đuổi ra.

BÌNH: Phàm gánh gói ômbát, nhổ cỏ ngóng gió, cũng phải có đôi mắt của (kẻ) hành cước mới được. Đôi mắt của ông tăng này tựa như sao chổi, song lại bị Nham Đầu khám phá, xuyên thành một chuỗi. Lúc ấy nếu như là một tay hảo hán, hoặc sát hoặc hoạt, vừa cử lên là phải nắm lấy chỗ dụng ngay. Ông tăng này mới lẩm cẩm, lại nói, “Thu được.” Nếu như các ông mà đi hành cước như thế nàu thế nào cũng bị Diêm Vương đòi tiền mãi lộ. Không hiểu ông tăng kia đi rách mất bao nhiêu đôi giầy cỏ để đến với Tuyết Phong. Nếu như lúc ấy mà ông ta có mắt chỉ một chút xíu thôi, chắc chắn là cũng liếc thấy được, há không khoái sao?

Nhân duyên này có chỗ khúc mắc trong ấy.Chuyện này tuy không có được mất, song chỗ được mất lại rất là lớn. Tuy rằng không có so đo, song đến chỗ này rồi các ông cần phải có con mắt so đo.

Lúc Long Nha đi hành cước, có đặt câu hỏi ra để hỏi Đức Sơn, “Lúc học trò dựa vào Gươm Mạc Da muốn lấy đầu thầy thì như thế nào?” Đức Sơn nghển cổ ra bước tới hét lên. Long Nha nói, “Đầu thầy tụng rồi.” Đức Sơn bèn quay về phương trượng. Sau đó Long Nha thuật lại câu chuyện trên cho Động Sơn, Động Sơn nói, “Lúc ấy Đức Sơn nói gì?” Long Nha nói, “Không nói gì cả.” Động Sơn nói, “Việc thầy ta không nói gì tạm gác qua một bên, thử đưa các đầu rụng dưới đất của thầy ta cho tôi xem.”Long Nha nghe lời ấy bèn đại ngộ, rồi thắp hương hướng về phía Đức Sơn mà lễ lậy sám hối. Có ông tăng thuật lại chuyện trên cho Đức Sơn, Đức Sơn nói, “Lão hán Động Sơn này không biết tốt xấu, gã kia chết đã lâu rồu, cứu sống dậy cũng đâu có ích lợi gì đâu?”

Công án này cũng giống với công án Long Nha. Đức Sơn quay về phương trượng, trong tối thầy ta vi diệu nhất. Nham Đầu cười lớn, trong tiếng cười của thầy ta có chỗ độc, nếu như có người nào phân biện được, thì tha hồ mà hoành hành trong thiên hạ. Nếu như lúc ấy mà ôngtăng kia phân biện ra được, thì hẳn là ông ta đã tránh được không bị kiểm trách suốt thiên cổ. Ông ta đã lỡ mất lúc còn ở trong môn hạ của Nham Đầu. Nhìn xem lão Tuyết Phong, vì là đồng bạn với Nham Đầu cho nên biết ngay chỗ cốt yếu. Song Tuyết Phong lại chẳng nói rõ ra cho ông tăng mà chỉ đánh ông ta ba mươi gậy rồi đuổi ra ngoài. Có thể bảo là không tiền khoáng hậu. Đây là khả năng giúp người bằng cách nắm lỗ mũi của các nạp tử. Chẳng làm gì cho họ cả, mà chỉ giúp họ tự ngộ mà thôi.

Các bậc tông sư giúp người, đôi khi đánh bẫy họ không để họ chui ra ngoài được, có lúc để mặc họ bối rối. Rồi thì thế nào họ cũng cứ phải có chỗ xuất thân. Vĩ đại như Nham ĐầuTuyết Phong rốt cuộc lại bị gã học Thiền ăn cơm này khám phá. Lúc Nham Đầu nói, “ Sau nạn Hoàng Sào còn thu được kiếm sao?” Các ông thử nói cho tôi xem ở đây phải đáp như thế nào để khỏi bị thầy ta cười? Cũng như tránh khỏi bị Tuyết Phong khện cho rồi đuổi ra ngoài? Chỗ này hết sứcmơ hồ nếu như các ông chưa từng tự chứng tự ngộ. Cho dù miệng lưỡi các ông có lanh lợi đi nữa, rốt cuộc cũng chẳng thấu thoát khỏi sinh tử được. Sư núi tôi bình thường hay khuyên người ta quán cái cơ quan chuyển xứ này, nếu như các ông toan lý luận, các ông đã xa vời biết mấy. Há không nghe chuyện Đầu Tử hỏi ông tăng ở Diên Bình rằng, “ Còn thu được kiếm không?” Ông tăng lấy tay chỉ đất. Đầu Tử nói, “ Ba mươi năm nay ta chơi cưỡi ngựa, hôm nay lại bị con lừa đá.” Nhìn ông tăng kia xem, ông ta quả thật là bậc chuyên gia. Ông ta không nói thu được mà cũng chẳng nói thu không được. Ông ta như thế cách ông tăng từ Tây Kinh cả đại dương.

Chân Như nêu lên rằng, “Các cổ nhân một người làm đầu một người làm đuôi. Chắc chắn thế.” Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Sau nạn Hoàng Sào từng thu kiếm,

Cười lớn phải cần chuyên gia hiểu

Ba mươi gậy núi kể còn nhẹ,

Được tiện nghi là mất tiện nghi.

BÌNH: “Sau nạn Hoàng Sào từng thu kiếm, cười lớn phải cần chuyên gia hiểu.” Tuyết Đậu lập tức tụng việc ông tăng kia và Nham Đầu cười lớn. Chỉ chút này thôi mà chẳng ai trong thiên hạ rờ rẫm ra được cả. Thử nói xem, thầy ta cười cái gì? Phải là bậc chuyên gia mới biết được. Trong tiếng cười này có quyền có thực, có chiếu có dụng, có sát có hoạt.

“Ba mươi gậy núi kể còn nhẹ,” là để tụng việc ông tăng kia đến trước mặt Tuyết Phong. Ông tăng này vẫn sơ hốt, cho nên Tuyết Phong mới theo lệnh đánh cho ba mươi gậy và đuổi ra. Thử nói xem, tại sao lại như thế? Các ông muốn tận tình hiểu câu chuyện này sao? “Được tiện nghi là mất tiện nghi.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13724)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25441)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13815)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15125)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17734)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17136)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14247)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13230)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14485)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19819)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16768)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18670)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19095)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18921)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21193)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14824)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39206)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14448)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19434)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14754)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16180)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14742)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15252)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14952)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15591)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39207)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14168)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24568)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14424)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19500)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18063)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21508)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19720)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17547)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14884)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13928)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13803)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14145)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21945)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16768)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15260)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14579)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14088)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14383)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15699)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14354)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15059)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18606)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24712)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23145)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28595)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15088)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14143)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14685)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18358)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26563)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15236)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14877)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15223)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15193)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant