Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tám Mươi Bảy: Bệnh Và Thuốc Trị Lẫn Nhau Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15222)
Tắc thứ Tám Mươi Bảy: Bệnh Và Thuốc Trị Lẫn Nhau Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ TÁM MƯƠI BẢY

BỆNH VÀ THUỐC TRỊ LẪN NHAU CỦA VÂN MÔN

 

THÙY: Người mắt sáng không khuôn sáo, có lúc trên đỉnh cô đơn cỏ miên man, có lúc trần trùng trục trong chợ ồn ào. Có lúc hiện ba đầu sáu tay phẫn nộ la hét. Có lúc xuất hiện như Nhật Diện Phật Nguyệt Diện Phật rọi ánh sáng từ bi nhiếp tất cả. Ở trong một hạt bụi hiện tất cả thân, tùy theo căn cơ của chúng sinh. Lẫn lộn với bùn nước. Khi vạch ra một lối hướng thượng, ngay cả mắt Phật cũng không trông thấy được người ấy. Dù cho ngàn thánh xuất hiện cũng cứ phải thối lui lại ba ngàn dặm. Còn có người đồng đắc đồng chứng không? Thử nêu lên xem.

CỬ: Vân Môn dạy chúng rằng, “Thuốc và bệnh trị lẫn nhau. Cả trời đất này là thuốc. Chính mình là gì?”

BÌNH: Vân Môn nói, “Thuốc và bệnh trị lẫn nhau. Cả trời đất này là thuốc. Chính mình là gì?” Các ông còn có chỗ xuất thân chăng? Trong suốt hăm bốn giờ của MỘT NGÀY trầm tư về câu “sừng sững như vách đá vạn trượng.” Gậy của Đức Sơn rơi như mưa, tiếng hét của Lâm Tế vang tựa sấm, tạm gác những cái này qua một bên, Thích Ca tự là Thích Ca Di Lặc tựDi Lặc. Những người chưa hiểu cốt yếu thường gọi đó là “thuốc và bệnh hợp nhau.” Đức Thế Tôn suốt bốn mươi chín năm trong hơn ba trăm chúng hội, đều tùy theo cơ duyênthiết lập giáo lý. Đây chính là tùy bệnh mà cho thuốc, đem quả ngọt mà đổi lấy trái bầu đắng. Đã rửa sạch nghiệp căn của các ông khiến các ông tự tại thánh thoát.

“Cả trời đất này là thuốc.” Các ông có chỗ nào để mà ghé miệng vào? Nếu như các ông có thể ghé miệng vào được, tôi chịu là các ông có chỗ chuyển thân thổ lộ. Lúc ấy các ông có thể đích thân gặp được Vân Môn. Nếu như các ông mãi nhìn quanh và ngần ngừ, các ông chẳng thể nào ghé miệng vào được. Vân Môn chính là ở dưới chân các ông.

“Thuốc và bệnh trị lẫn nhau.” Chỉ là lời bình luận tầm thường mà thôi, Nếu như các ông chấp hữu, thầy ta sẽ nói vô với các ông; nếu như các ông chấp trước vào vô thì thầy ta sẽ nói hữu lẫn vô, thì thầy ta sẽ thể hiện kim thân một trượng sáu ngay trên đống rác cho các ông, xuất hiện rồi biến mất.

Hiện giờ cả trời đất này cùng sâm la vạn tượng và chính con người mình cũng một lúc là thuốc. Đúng vào lúc ấy thì các ông biết gọi cái gì là chính mình đây? Nếu như các ông cứ gọi là thuốc thì cho đến lúc Di Lặc hạ sinh đi nữa, các ông vẫn chẳng thấy Vân Môn được cho dù chỉ là trong mộng. Rốt cuộc như thế nào đây? “ Nắm y đầu lưỡi câu, đừng chấp giữa cán cân.”

Một hôm Văn Thù sai Thiện Tài đi hái thuốc nói rằng, “ Hái bất cứ những gì không phải là thuốc về đây.” Thiện Tài lung kiếm khắp nơi song chẳng thấy gì mà lại không phải là thuốc cả. Thiện Tài bèn trở về bạch với Văn Thù rằng, “Chẳng có gì mà lại không phải là thuốc cả.” Văn Thù nói, “ Thử hái những gì là thuốc vể đây xem.” Thiện Tài bèn ngắt mộng cọng cỏ trao cho Văn Thù. Văn Thù dơ lên nói với đại chúng rằng, “ Thuốc này vừa có thể giết người vừa có thể cứu người.”

Lời nói về thuốc và bệnh trị lẫn nhau này hết sức là khó thấy. Vân Môn thường dùng lời ấy trong thất để mà tiếp thiên hạ. Kim Nga Trưởng Lão một hôm đến thăm Tuyết Đậu. Kim Nga là bậc chuyên gia trong dòng Lâm Tế. Hai người bàn luận với nhau về lời nói thuốc với bệnh trị lẫn nhau này suốt một đêm mãi cho đến khi trời sáng mới luận hết được cái hay của nó. Đến chỗ này rồi thì bao nhiêu kiến thức suy nghĩ do đo đều chẳng đem ra ứng dụng được. Sau đó Tuyết Đậu có làm bài tụng để tiễn Kim Nga rằng, “Thuốc bệnh tương trị rất khó thấy, cổng khóa vạn trùng quá vô đoan. Đạo nhân Kim Nga đến hỏi thăm, sóng nước biển học một đêm cạn.” Khúc cuối Tuyết Đậu tụng một cách công phu nhất. Ý của thầy ta vừa ở ngôi vị khách vừa ở ngôi vị chủ. Các ông tự thấy vậy.

TỤNG

Cả trời đất là thuốc,

Cổ kim sao lầm vậy?

Đóng cửa không làm xe,

Đường lối tự thênh thang

Sai sai!

Mũi cao tận trời vẫn bị xỏ.

BÌNH: “Cả trời đất là thuốc, cổ kim saolầm vậy?” Nếu như các ông gọi đó là thuốc thì tự cổ chí kim kể như các ông lầm lẫn cả rồi. Tuyết Đậu nói,” Có một loại người không biết cắt đứt gót chân của Đại Mai, chỉ nói rằng Đại Mai đi quá nhanh.” Tuyết Đậu biết cắt đứt gót chân của Đại Mai.

Một câu nói này của Vân Môn làm mê loạn người trong thiên hạ. Vân Môn nói, “Gậy tôi là sóng, các ông tha hồtung hoành. Khắp cả trời đất này là sóng, để xem xem các ông chìm hay nỗi.” Đóng cử không làm xe, đường lối tự thênh thang.” Tuyết Đậu nói để khai thông một con đường cho các ông. Nếu như các ông đóng cửa làm xe, đem ra cửa hợp với vết cũ, thì các ông đã hoàn thành được gì? Tôi ở đây đóng cửa cũng chẳng làm xe, lúc ra ngoài tự nhiên thênh thang.” Ở đây Tuyết Đậu để lộ ra một chút để cho thiên hạ thấy.

Tuyết Đậu lại vội vã nói tiếp, “Sai sai!” Đầu cũng sai mà cuối cũng sai. Ai hay rằng Tuyết Đậu khai thông ra một con đường? Cũng là sai luôn? Nếu như lỗ mũi các ông đã cao đến tận trời thì làm sao còn bị xỏ? Các ông có muốn hiểu không? Bỏ ra ba mươi năm mà tham Thiền.Nếu như các ông có gậy tôi cho các ông một cây gậy; nếu như các ông không có gậy, khó tránh mà bị người khác xỏ mũi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13741)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25450)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13823)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15153)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17758)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17146)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14261)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13235)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14493)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19828)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16793)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18684)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19124)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18941)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21206)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14832)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39221)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19449)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14769)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16192)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14753)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15263)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14972)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15606)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14182)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24588)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14443)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19510)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18080)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21519)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19733)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17571)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14894)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13941)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13810)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14175)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21961)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16788)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15274)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14590)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14108)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14399)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15713)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14365)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15083)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18624)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24723)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23163)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28626)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15096)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14158)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14702)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18372)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26576)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15250)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14895)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15242)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15219)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant