Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Mười Hai: Ba Cân Gai Của Động Sơn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15857)
Tắc thứ Mười Hai: Ba Cân Gai Của Động Sơn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 2

TẮC THỨ MƯỜI HAI

BA CÂN GAI CỦA ĐỘNG SƠN

 

THÙY: Đao giết người, kiếm cứu người, là phong qui đời xưa, là cốt yếu của thời nay. Nếu luận về giết, chẳng hại một sợi lông. Nếu luận về cứu, liền tang thân thất mạng. Cho nên mới có lời nói, “ Một đường hướng thượng, ngàn thánh không truyền, kẻ học mệt thân, như khỉ bắt bóng.” Thử nói xem, đã không truyền thì tại sao lại có đến lắm công án dây dưa như vậy? Để những người cómắt thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng hỏi Động Sơn, “Phật là gì?” Động Sơn nói, “Ba cân gai.”

BÌNH: Công án bị khá nhiều người hiểu lầm. Quả là khó nhai bởi vì không có chỗ để cho các ông ghé miệng.Tại sao vậy? Bởi vì nó vừa nhạt nhẽo vừa vô vị. Cổ nhân có rất nhiều câu trả lời cho câu hỏi, “ Phật là gì?” Có vị nói, “Ở trong chánh điện đó.” Có vị nói, “ Ba mươi hai tướng.” Có vị nói, “ Ngọn roi trúc dưới núi.” Đến Động Sơn thì lại nói, “Ba cân gai”. Đúng là làm líu hết lưỡi cổ nhân. Thiên hạ bàn luận nhiều về công án này, có người nói rằng. “Lúc ấy Động Sơn đang ở trong nhà kho cân gai, vừa lúc ông tăng hỏi cho nên mới trả lời như thế. Có người nói Động Sơn hỏi đông đáp tây. Có người nói mình đã là Phật còn đi hỏi Phật cho nên Động Sơn mới trả lời vòng vo như thế. Trong bọn người chết kia lại có kẻ nói ba cân gai chính là Phật. May mà chẳng có gì là đúng cả. Nếu như các ông lo đi tìm tòi trong lời của Động Sơn như thế, có tham nghiệm cho đến lúc Di Lặc hạ sinh đi nữa cũng chẳng thấy được gì.

Tại sao vậy. Ngôn ngữ chỉ là dụng cụ để chở Đạo. Đàng này đã không hiểu ý cổ nhân lại chỉ lo tìm tòi trong ngôn ngữ của họ, có dáng dấp gì đâu? Há không nghe cổ nhân nói, “Đạo vốn vô ngôn, nhân ngôn hiển đạo. Thấy đạo tức quên lời.” Đến đây phải cùng tôi trở lại vấn đề nguyên thủy mới được. Ba cân gai này cũng giồng như đại lộ l6en Trường An vậy. Dơ chân để chân không có hành động nào đúng. Câu chuyện này cũng khó hiểu giống như Vân Môn nói, “Bánh”, Ngũ Tổ tụng rằng “ Gã khiêng ván bán rẻ, cân ra ba cân gai. Hang động trăm ngàn năm, chẳng có chốn nương thân.” Các ông cần phải trong một chặp rũ sạch tư tưởng cảm quan, ý tưởng, so đo, được mất, thị phi, thì tự nhiên sẽ hiểu.

TỤNG: 

Kim ô cấp[5]

Ngọc thố[6]

Đáp khéo làm sao có cơ suất?

Triển sự hợp cơ thấy Động Sơn.

Miết[7] què rùa đui thung lũng trống.

Hoa xum xuê,

Rừng rậm rạp.

Trúc phương nam hề phương bắc,

Nghĩ tời Trường Khánh, Lục Đại Phu[8]

Biết nói phải cười chứ không khóc.

Ôi!

BÌNH: Tuyết Đậu nhìn thấu hết, cho nên nói thẳng ra, “Kim ô cấp, ngọc thỏ tốc. ”Không khác với Động Sơn nói, “ ba cân gai”. Mặt trời mọc, mặt trăng lặn, ngày nào cũng vậy. Thiên hạ hay hiểu theo tri thức cảm quan mãi nói, “Kim ô là mắt trái, ngọc thỏ là mắt phải.” Vừa bị hỏi đã trợn trừng mắt nói, “Ở đây đây.” Song chẳng có nhằm nhò gì cả. Nếu như các ông hiểu như thế thì tông môn của Đạt Ma hẳn sẽ bị tận diệt mất. Cho nên mới có câu nói, “ Thả câu bốn biển, chỉ câu mãnh long. Huyền cơ đặc biệt, để tìm tri kỷ.” Tuyết Đậu là người đã vượt lên trên cõi vực của ngũ ấm[9], há lại có thứ kiến giải như thế sao ? Tuyết Đậu nhẹ nhàng đi vào những chỗ vi diệu nhất để vạch ra chút nào cho các ông thấy, cho nên mới thêm cước chú rằng,” Đáp khéo làm sao có sơ suất?” Động Sơn không hề trả lời ông tăng kia một cách lơ là, thầy ta giống như cái chuông được đánh, như thung lũng, đáp lại tiếng vang. Lớn nhỏ gì cũng dội lại. (Động Sơn cũng thế) đâu có giám khinh suất. Tuyết Đậu trong một lúc đột nhiên thổ lộ tâm can ra cho các ông xem. Tuyết Đậu có câu tụng tĩnh lặng xong khéo tương ứng: “ Gặp nhau thẳng mặt, không gì rắc rối, rồng rắng dễ phân, nạp tăng[10] khó lừa. Bóng trùy vang động, ánh bảo kiếm lạnh, bộ xương trực tiếp, mau ghé mắt xem!”

Lúc Động Sơn mới gặp Vân Môn, Vân Môn hỏi, “Ông mới ở đâu tới vậy?” Động Sơn nói, “ Tra-Độ”. Vân Môn nói, “Kiết hạ ở đâu?” Đông Sơn nói, “Ở chùa Báo Từ, Hồ Nam.” Vân Môn nói, “ Kiết hạ ở đâu?” Động Sơn Từ, Hồ Nam. Vân Môn nói, “Ông rời đó lúc nào?” Động Sơn nói, “ Hăm lắm tháng tám.” Vân Môn nói, “ Tha cho ông ba trận gậy đó, mau vào sảnh đường tham thiền đi.” Tối đến Động Sơn vào phòng của Vân Môn, mon men đến gần hỏi, “Kẻ hèn này có lỗi ở chỗ nào?”Vân Môn nói, “Đồ bị gạo, Giang Tây với Hồ Nam thì cũng thế mà thôi.” Nghe lời ấy, Động Sơn hốt nhiên đại ngộ, nói, “ Sau này tôi sẽ đến một nơi không bóng người, tự xây một am thảo, không trữ một hạt gạo, chẳng trồng một cành rau, chỉ thường tiếp các đại thiện tri thức từ thập phương lui tới. Tôi sẽ tận lực nhổ đinh bật chốt cho họ, dở mũ sờn, cởi áo bẩn cho họ, khiến ai nấy siêu thoát tự tạitrở thành những kẻ vô sự.” Vân Môn nói, “ Con người ông chỉ bằng trái dừa mà sao ông mở miệng lớn lối thế. “

Động Sơn bèn từ giã Vân Môn. Chỗ giác ngộ của thầy ta lúc đó trực tiếp và khoảng khoát, há giống như các thứ kiến thức hẹp hòi sao? Sau này lúc Động Sơn ra đời để tiếp dẫn thiên hạ[11],câ nói “ ba cângai” kia thường được thiên hạ các nơi hiểu như là đế đáp cho câu hỏi “ Phật là gì”. Đó là dùng tri thức lý luận ra mà hiểu Phật. Tuyết Đậu nói nếu người ta hiểu câu đáp của Động Sơn như là một cách khoáng trương dữ lkiện cho hợp với hoàn cảnh thì thật chẳng khác gì con ba ba què hay con rùa mù lạc vào thung lũng thênh thang, đến năm tháng nào mới tìm được lối ra đây?

Còn câu “hoax um xuê, rừng rậm rạp” là do ở câu chuyện sau đây: Có ông tăng hỏi Trí Môn Hòa Thượng, “Động Sơn nói ba cân gai, ý nghĩa của lời ấy là gì?” Trí Môn nói, “Hoa xum xuê, rừng rậm rạp. Hiểu không?” Ông tăng không hiểu. Trí Môn lại nói, “Trúc phương nam hề gỗ phương bắc.” Ông tăng về thuật lại cho Động Sơn. Động Sơn nói, “Tôi không chỉ giải thích cho ông, mà sẽ giải thích cho cả chúng hội.” Rồi thượng đường nói, “Ngôn ngữ (tuy là) để giải bày sự vật, song ngôn ngữ không phải lúc nào cũng thích hợp với hoàn cảnh. Bám vào ngôn ngữlầm lạc, còn vương vào chữ nghĩa là mê mờ.”[12]

Tuyết Đậuý muốn phá tan hết các kiến chấp của thiên hạ cho nên mới xâu tất cả lại thành một chuỗi mà tụng ra. Song người đời sau lại càng thêm kiến chấp nói rằng, “ (Vải) gai là tang phục, trúc là gậy tang, cho nên mới nói “ trúc phương nam hề gỗ phương bắc.” Còn “hoax um xêu, rừng rậm rạp” là hoa lá vẽ trên quan tài. Họ còn biết xấu hổ chăng? Họ đâu có biết rằng “ trúc phương nam hề gổ phương bắc” với lại “ba cân gai” cũng tựa như “ba” với “bố” mà thôi. Cổ nhân đáp ra một lời then chốt, ý của họ quyết không phải là như thế. Cũng giống như khi Tuyết Đậu nói, “ Kim Ô cấp, ngọc thỏ tốc,” cũng khoảng khoát như vậy. Có điều vàng thau lẫn lộn, “ ngư” “lỗ”[13] chập chùng.

Tuyết Đậu từ bi cùng tột, muốn phá vỡ mối nghi của các ông cho nên mới dẫn lời bọn dở chết. “ Nghĩ tới Trường Khánh, Lục Đại Phu; biết nói phải cười chứ không khóc.” Nếu như luận bài tụng của Tuyết Đậu thì chỉ ba câu đầu là đã tụng hết rồi. Nhưng mà tôi muốn hỏi các ông, cả thế giới này chỉ giống như ba cân gai, tại sao Tuyết Đậu lại phải dây dưa như thế? Chỉ vì từ bi quá đỗi cho nên mới như thế.

Lúc Lục Hoàn đại phu làm Quán Sát Sứ Tuyên Châu có tham học với Nam Tuyền. Lúc mà Nam Tuyền mất, Hoàn nghe tin vào chùa chịu tang. Vào đến noi Hoàn lại cười ha hả. Viện chủ hỏi, “Tiên sư với Đại Phu có nghĩa sư sinh,tại sao đại phu lại không khóc?” Hoàn nói, “Thầy nói gì đi rồi tôi khóc.” Viện chủ không nói gì được. Hoàn bật khóc nói, “ Trời ơi, trời ơi, Tiên sư khứ thế đã lâu quá rồi,” Sau này Trường Khánh nghe chuyện ấy nói, “Lục đại phu lẽ ra phải cười chứ không phải là khóc”.

Tuyết Đậu mượn đại ý của câu chuyện này mà nói rằng nếu các ông lo hiểu theo kiến chấp như thế thì quả là đáng cười chứ không đáng khóc. Đúng thì đúng thật, song cuối cùng có một chữ không khỏi có hơi dư thừa, ấy là lúc Tuyết Đậu nói, “Ôi” Tuyết Đậu có tự rửa mình sạch sẽ được chăng?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19832)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28941)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20668)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19410)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30471)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36405)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33193)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35529)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20956)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21910)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25248)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25781)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31234)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18551)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25129)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23754)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28918)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20849)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31440)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25533)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29707)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22506)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25701)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23264)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25728)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23717)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40587)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23342)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22430)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22074)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23497)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16953)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23275)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24293)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41077)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18970)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20469)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27717)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38094)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34057)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36771)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23984)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29169)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60125)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27590)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68705)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24499)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24471)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22669)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26344)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26513)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20795)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20042)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27538)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46395)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53562)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23588)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21079)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25549)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29240)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant