Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Sáu Mươi Bảy: Lương Vũ Đế Mời Giảng Kinh

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15445)
Tắc thứ Sáu Mươi Bảy: Lương Vũ Đế Mời Giảng Kinh

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 7

TẮC THỨ SÁU MƯƠI BẢY

LƯƠNG VŨ ĐẾ MỜI GIẢNG KINH

 

CỬ: Lương Vũ Đế mời Phó Đại Sĩ giảng Kinh Kim Cương. Phó Đại Sĩ đứng trên tòa lay bàn một cái rồi xuống khỏi tòa. Vũ Đế ngạc nhiên.Chí Công hỏi, “Bệ hạ hiểu chứ?” Vũ Đế nói, “Không hiểu.” Chí Công nói, “Đại Sĩ đã giảng xong kinh rồi.”

BÌNH: Lương Cao Tổ Vũ Đế họ Tiêu. Húy là Diên tên là Thúc Đạt. Lập được sự nghiệp lớn rồi tiếp ngôi của nhà Tề. Sau khi tức vị chú giải Ngũ kinh để giảng nghĩa. Vua cũng tu tập Lão giáo một cách hết sức ráo riết, tính tình thì lại chí hiếu. Một hôm nghĩ đến Pháp xuất thế để báo công ơn cha mẹ. Cho nên mới bỏ Lão giáo mà theo Phật giáo. Sau đó thụ Bồ Tát Giới nơi Lữ Ước Pháp Sư. Vua thường tự mặc áo cà sa giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã để báo ơn cha mẹ.

Lúc ấy Chí Công Đại Sĩ, thị hiện thần thông làm dân chúng mê hoặc cho nên bị giam cầm trong ngục. Chí Công bèn phân thân du hóa trong thành ấp. Một hôm Vũ Đế khám phá ra điều ấy, rất lấy làm cảm kích, và rất là tôn trọng Chí Công,Chí Công lại tiếp tục thực hành phép biến hóa, biến hiện không biết đường nào mà lường.

Lúc ấy có bậc Đại Sĩ ở trên Vân Hoàng Sơn tại Vụ Châu. Chính tay trồng hai cội cây rồi gọi là song thụ, tự gọi mình là Thiện Huệ Đại Sĩ của tương lai. Một hôm biên một lá thư rồi sai đệ tử trình lên cho vua. Lúc ấy triều đình không nhận vì cho rằng thiếu lễ quân thần.

Lúc Phó Đại Sĩ sắp vào thành Kim Lăng để bán cá, Vũ Đế mời Chí Công giảng Kinh Kim Cương. Chí Công nói, “Bần đạo không giảng được. Trong thành có Phó Đại Sĩ có thể giảng được kinh này.” Vũ Đế bèn xuống chiếu vồi Phó Đại Sĩ vào cung cấm. Đại Sĩ vào đến nơi, bước lên giảng tòa lay bàn một cái rồi xuống khỏi tòa. Lúc ấy nếu như ( Vũ Đế) mà được đẩy một cái hẳn đã tránh khỏi được một cơn lúng túng. Đằng này lại bị Chí Công hỏi, “Bệ hạ hiểu chứ?” Vũ Đế nói, “Không hiểu,” Chí Công nói, “Đại Sĩ đã giảng kinh xong rồi.”

Đây cũng là một người làm đầu một người làm đuôi. Song Chí Công nói như vậy, có thấy Phó Đại Sĩ chăng dù chỉ là trong mộng? Ai cũng có lúc dở trò ma quỉ, song đây quả thực là kỳ đặc. Tuy là con rắn chết xong biết cách vẫn có thể làm cho nó sống lại được. Phó Đại Sĩ đã giảng kinh, tại sao lại không biết phân làm hai phương diện như các vị tòa chủ bình thường hay nói, “Thể của kim cương kiên cố vô cùng, chẳng có vật gì có thể hủy hoại nó được cả. Vì có cái dung sắc bén, cho nên nó có thể cắt vạn vật.” Giảng thuyết như vậy mới gọi là giảng kinh. Tuy là thế, song các ông chẳng hề hay rằng Phó Đại Sĩ chỉ nêu lên điểm hướng thượng then chốt, để lộ điểm sắc khiến thiên hạ thấy được chỗ cốt yếu. Đặt nó sừng sững ngay trước mặt các ông như thể vách đá vạn trượng. Thế mà lại bị Chí Công, chẳng phân biệt được tốt xấu, nói rằng, Đại Sĩ đã giảng kinh xong rồi,” Đúng là có hảo tâm mà không được đền bù một cách tốt đẹp. Giống như một chén rượu ngon bị Chí Công pha nước vào, giống như một chén canh ngon bị Chí Công bỏ cứt chuột vào.

Thử nói xem, đã không là giảng kinh, thì rốt cuộc gọi là gì? Tụng rằng:

TỤNG

Không dựa thân này nơi song lâm,

Lại vướng trần ai nơi đất Lương.

Lúc ấy nếu khôngChí Công,

Đã phải vội vàng bỏ nước đi.

BÌNH: “Không dựa thân này nơi song lâm, lại vướng trần ai nơi đất Lương.” Phó Đại Sĩ và lão răng hở (Đạt Ma) kia gặp Vũ Đế trong một hoàn cảnh tương tự nhau. Đạt Ma thuở mới đến Kim Lăng gặp Vũ Đế, Vũ Đế hỏi, “Thế nào là thánh đế đệ nhất nghĩa?” Bồ Đề Đạt Ma nói, “ Trống không chẳng có gì linh thánh.” Vũ Đế nói, “Thế ai đang đối diện với trẫm vậy?” Bồ Đề Đạt Ma nói, “Tôi không biết.” Vũ Đế không khế hội, cho nên Bồ Đề Đạt Ma bèn qua sông sang đất Ngụy. Vũ Đế thuật lại câu chuyện cho Chí Công, Chí Công hỏi, “Thế bệ hạ đã biết người ấy là ai chưa?” Vũ Đế nói, “Không biết.” Chí Công nói, “Đó là Quan Âm Đãi Sĩ trao truyền Phật tâm ấn.” Vũ Đế lấy làm ân hận bèn sai sứ đuổi theo. Chí Công nói, “Đừng có nói là bệ hạ chỉ sai sứ đuổi theo, dù cho có cả nước đuổi theo đi nữa, người ấy cũng không trở lại đâu.” Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Lúc âý nếu khôngChí Công , đã phải vội vàng bỏ nước đi.” Lúc ấy nếu như không nhờ Chí Công ra sức cho Phó Đại Sĩ cũng đã lại phải bỏ nước mà đi rồi. Chí Công lắm miệng như thế, cho nên Vũ Đế cũng bị thầy ta lừa cho một trận.

Ý Tuyết Đậu muốn nói là Phó Đại Sĩ chẳng cần phải đến đất Lương để giảng kinh với lay bàn để làm gì. Cho nên thầy ra mới nói, “Tại sao không dựa thân nơi song lâm kia, ăn cháo ăn cơm, qua ngày một cách an phận, mà lại phải tới xứ Lương này để mà giảng giải với lại lay bàn một trận rồi bước khỏi tòa như thế?” Đây chính là chỗ thầy ta bị vướng trần ai.

Nếu như các ông muốn pháp thù thắng thì hãy đưa mắt nhìn trời cao; trên không thấy có Phật, dưới không thấy có chúng sinh. Nếu như các ông bàn luận về việc xuất thế, khó mà tránh khỏi đầu mặt lem luốc. Lấy không làm có, lấy có làm không, lấy đúng làm sai, lấy thô làm tế; trong chợ cá tiệm rượu, nêu ngang dựng ngược khiến cho tất cả mọi người hiểu rõ việc này. Nếu như các ông không buông bỏ như thế, thì dù cho đến lúc Di Lặc hạ sinh cũng chẳng có lấy một người nào hiểu được. Phó Đại Sĩ đã lê trong bùn lấm trong nước, may mà có bậc tri âm, Nếu như không nhờ lão Chí Công kỷ hồ như bị đuổi ra khỏi nước rồi. Thử nói xem, hiện giờ thầy ta ở đâu?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19874)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28995)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20706)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19461)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30541)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36460)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33253)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35586)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21006)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21937)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25280)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25816)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31293)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18580)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25163)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23792)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28961)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20891)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31465)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25567)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29736)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22539)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25740)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23306)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25761)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23754)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40625)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23364)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22479)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22106)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23521)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16984)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23299)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24336)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41132)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19013)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20510)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27744)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38142)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34091)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36815)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24030)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29226)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60183)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27635)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68772)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24554)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24517)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22738)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26389)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26566)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20838)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20084)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27586)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46476)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53599)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23627)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21119)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25611)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29296)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant