Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Năm Mươi Ba: Vịt Trời Của Mã Đại Sư

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15756)
Tắc thứ Năm Mươi Ba: Vịt Trời Của Mã Đại Sư

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 6

TẮC THỨ NĂM MƯƠI BA

VỊT TRỜI CỦA MÃ ĐẠI SƯ

 

THÙY: Khắp nơi không ẩn, toàn cơ độc lộ.gặp chuyện không vướng, luôn luôn có cơ duyên xuất thân. Trong câu vô tư, chỗ nào cũng có ý giết người. Song thử nói xem, rốt cuộc cổ nhân an nghỉ ở chỗ nào? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một lần kia Mã Đại Sư tản bộ với Bách Trượng, thấy có bầy vịt trời bay qua. Mã Đại Sư hỏi, “Cái gì vậy?” Bách Trượng nói, “Vịt trời.” Mã Đại Sư nói, “Bay đi đâu vậy?” Bách Trượng nói, “Bay đi mất rồi.” Mã Đại Sư bèn bẹo mũi Bách Trượng. Bách Trượng đau quá kêu lên. Mã Đại Sư nói, “Đã từng bay đi đâu?” 

BÌNH: Nếu dùng đôi mắt chính đáng mà nhìn thì Bách Trượng là người có chính nhãn, trong khi Mã Đại Sư không có gió lại gây sóng. Nếu như các ông muốn làm thầy của Phật và Tổ thì phải tham thủ Bách Trượng. Còn nếu như muốn tự cứu mình cũng chẳng được, thì tham thủ Mã Đại Sư. Nhìn xem các cổ nhân chưa từng bao giờ mà không có mặt ở Chỗ Này.

Bách Trượng rời bỏ chốn bụi trần lúc nãy còn rất trẻ, thông thạo cả tâm học. Lúc ấy nghe Đại Tích (Mã Tổ) xiển hóa ở Nam Xương, mới dốc lòng theo học. Suốt hai mươi năm làm thị giả cho Mã Tổ, cho đến khi đến tham kiến thêm lần nữa, nghe tiếng hét mà đại ngộ. Hiện nay có kẻ nói, “Ở nơi vốn không có ngõ, kiến lập một cửa vào ngõ.” Nếu các ông hiểu như thế , các ông giống như con bọ trên thân sư tử sống bằng thịt sư tử. Há không nghe cổ nhân nói, “Nguồn không sâu thì dòng nước không dài, trí không lớn thì thấy không xa.” Nếu đừng kiến lập mà hiểu Phật pháp làm sao mà có được như ngày nay.

Nhìn xem lúc Mã Đại Sư và Bách Trượng đi dạo thấy có bầy vịt trời bay qua. Mã Đại Sư há không biết đó là vịt trời sao? Tại sao lại còn hỏi như thế? Thử nói xem ý của Đại Sư nằm ở chỗ nào? Bách Trượng chỉ còn biết lẽo đẽo theo sau, Mã Tổ mới béo mũi cho. Bách Trượng đau quá kêu lên, Mã Tổ nói, “Đã từng bay đi đâu?” Bách Trượng bèn tĩnh ngộ. Ngày nay có nhiều kẻ hiểu lầm, vừa mới bị hỏi đã làm như đau kêu lên, song cũng đâu có nhảy ra khỏi được.

Các bậc tông sư một khi đã vì người khác, bao giờ cũng đến nơi đến chốn. Thấy Bách Trượng không hiểu, không khỏi bị đứt tay vì mũi nhọn. Mã Tổ chỉ muốn cho Bách Trượng hiểu sự việc này. Cho nên mới có câu nói, “Hiểu thì có thể thu đúng trên đường, không hiểu thì thế tục đế lan tràn.” Nếu như lúc ấy Mã Tổ mà không béo mũi Bách Trượng, thì thế tục để hẳn đã lan tràn rồi. Cần phải gặp cảnh gặp duyên uyển chuyển dạy cho người ta quay về nơi chính mình. Suốt ngày không có chỗ sơ hở nào, đó gọi là tính địa minh bạch.” Nếu chỉ dựa cỏ nương cây, nửa lừa nửa ngựa thì có ích gì đâu?

Nhìn xem Mã Tổ và Bách Trượng thụ dụng như thế, tuy họ có vẻ chiêu chiêu linh linh song lại không trụ nơi chiêu chiêu linh linh. Bách Trượng đau quá kêu lên. Nếu cứ như thế mà thấy, thì khắp giới không ẩn, nơi hiện thành. Cho nên mới có câu nói rằng, “Nếu như thấu được một nơi thì ngàn nơi vạn nơi cùng thấu.”

Hôm sau Mã Tổ thăng đường, chúng hội mới tụ tập, Bách Trượng đã bước ra cuốn chiếu lễ lên. Mã Tổ bèn hạ tòa. Lúc trở về phương trượng bèn hỏi Bách Trượng, “Vừa rồi tôi thăng đường, chưa kịp thuyết pháp, cớ sao ông lại đi cuốn chiếu lễ lại như thế?” Bách Trượng nói, “Hôm qua bị hòa thượng béo mũi đau quá.” Mã Tổ nói, “Hôm qua ông lưu tâm ở đâu vậy?” Bách Trượng nói, “Hôm qua ông lưu tâm ở đâu vậy?” Bách Trượng nói, “Hôm nay mũi không còn đau nữa.” Mã Tổ nói, “Ông hiểu biết việc hôm nay rất rõ.” Bách Trượng bèn cúi lạy rồi quay về phòng thị giả, vừa khóc. Có ông thị giả đồng sự hỏi, “Tại sao thầy lại khóc?” Bách Trượng nói, “Ông cứ lên hỏi hòa thượng đó.” Ông thị giả kia bèn lên hỏi Mã Tổ.Mã Tổ nói, “Ông cứ đi hỏi thầy ta đó.” Ông thị giả kia lại quay về phòng hỏi Bách Trượng, Bách Trượng lại cười ha hả. Ông thị giả kia nói, “Vừa mới đây ông khóc, bây giờ tại sao lại cười đây?” Bách Trượng nói, “ Vừa rồi tôi khóc, bây giờ tôi cười.” Nhìn xem, sau khi ngộ rồi Bách Trượng mới nhẹ nhõm làm sao, chẳng cách chi mà mắc bẫy, tự nhiên lung linh. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Bầy vịt trời,

Biết về đâu.

Mã Tổ thấy chúng nói với nhau,

Nói về mây núi cùng trăng biển.

Như xưa không hiểu bảo bay đi,

Muốn bay đi,

Lại giữ lại,

Nói, nói!

BÌNH: Tuyết Đậu tụng ngay rằng, “Bầy vịt trời, biết về đâu?” Song thử nói xem có bao nhiêu? Mã Tổ thấy chúng nói với nhau.” Đâu là để tụng Mã Tổ hỏi Bách Trượng “ cái gì vậy” Và Bách Trượng nói, “Vịt trời.” “ Nói về mây núi cùng trăng biển.” Đây là để tụng việc Mã Tổ lại hỏi “bay đi đâu vậy?” Ý chỉ của Mã Đại Sư cho Bách Trượng quá là tự nhiên thoát thể. Bách Trượng vẫn như xưa không hiểu lại nói rằng, “ Bay đi rồi.” Sai gấp đôi.

Muốn bay đi, lại giữ lại.” Tuyết Đậu dựa vào dữ kiệnkết thúc công án. Lại nói, “Nói, nói!” Đây chính là chỗ Tuyết Đậu chuyển thân. Thử nói xem, các ông phải nói như thế nào? Nếu như kêu lên vì đau là sai. Nếu như không kêu lên vì đau thì phải hiểu như thế nào? Tuy rằng Tuyết Đậu tụng hết sứckỳ diệu, song cũng không nhảy ra khỏi được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19877)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28996)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20710)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19462)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30548)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36464)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33259)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35590)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21006)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21941)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25281)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25818)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31295)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18582)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25164)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23795)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28962)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20893)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31465)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25574)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29740)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22541)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25742)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23306)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25762)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23761)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40627)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23364)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22481)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22106)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23522)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16984)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23300)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24340)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41132)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19018)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20511)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27747)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38147)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34095)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36817)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24031)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29229)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60190)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27637)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68775)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24554)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24518)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22740)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26390)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26571)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20842)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20085)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27586)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46478)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53605)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23632)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21125)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25616)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29297)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant