Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Năm Mươi Mốt: “Cái Gì Đây” Của Tuyết Phong

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15382)
Tắc thứ Năm Mươi Mốt: “Cái Gì Đây” Của Tuyết Phong

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 6

TẮC THỨ NĂM MƯƠI MỐT

“CÁI GÌ ĐÂY?” CỦA TUYẾT PHONG

 

THÙY: Vừa khởi thị phi, mất tâm bối rối. Không lạc thứ lớp, lại chẳng rờ rẫm.

Thử nói xem, buông bỏ có phải là nắm giữ? Đến chỗ này rồi mà vẫn còn chút tơ hòa giải thích, thì vẫn còn vướng vào ngôn ngữ. Nếu như vẫn còn mắc vào cơ cảnh, thì chỉ đều là dựa cỏ nương cây.Dù cho có đạt đến chỗ giải thoát đơn độc đi nữa, vẫn chưa khỏi vạn dặm ngóng cổng làng. Các ông đã nắm được chưa? Nếu chưa thì chỉ phải hiểu cái công án rõ ràng này. Thử nêu lên xem.

CỬ: Lúc Tuyết Phong ở trong am, có hai ông tăng đến đảnh lễ. Tuyết Phong thấy họ đến lấy tay đẩy cửa, có người ra nói, “Cái gì đây?” Ông tăng cũng nói, “Cái gì đây?” Tuyết Phong cúi đầu đi vào am.

Sau đó ông tăng đến nơi của Nham Đầu. Nham Đầu hỏi, “Từ đâu đến vậy?” Ông tăng nói, “Từ Lĩnh Nam đến.” Nham Đầu hỏi, “Đã từng đến gặp Tuyết Phong chưa?” Ông tăng nói, “Rồi.” Nham Đầu hỏi, “Thầy ta có lời dạy gì?” Ông tăng kể lại câu chuyện trên. Nham Đầu nói, “Thầy ta nói gì?” Ông tăng nói, “Thầy ta chẳng nói gì cả mà chỉ cúi đầu đi vào am.” Nham Đầu nói, “Ôi , đáng tiếc lúc đầu ta lại không nói câu cuối cho thầy ta. Nếu như ta nói, người trong thiên hạ làm gì được lão Tuyết đây?

Đến cuối hạ ông tăng kia lại đế cập đến câu chuyện nọ để xin chỉ thị. Nham Đầu nói, “Tại sao không hỏi từ trước?” Ông tăng nói, “Không dám xem nhẹ.” Nham Đầu nói, “Mặc dù Tuyết Phong cùng sinh trong một dòng với ta, song không cùng chết trong một dòng với ta. Nếu như ông muốn biết câu cuối cùng thì là cái này đây.”

BÌNH: Phàm kẻ muốn chống đỡ tông môn, cần phải biện được cơ duyên mà mình đang đương đầu. Phải biết tiến thoái thị phi, phải rõ sát hoạt nắm buông. Nếu như mắt hốt nhiên mờ đi, đến đâu gặp câu hỏi bèn hỏi, gặp đáp bèn đáp, đâu có hay rằng lỗ mũi mình nằm trong tay người khác.Còn như Tuyết PhongNham Đầu là cùng học với Đức Sơn. Hai ông tăng kia đến tham kiến Tuyết Phong, chỗ hiểu biết chỉ đến mức đó mà thôi. Cho đến lúc gặp Nham Đầu, vẫn chưa thành tựu được một việc kia. Làm phiền hai vị tôn túc này một cách vô ích. Một hỏi một đáp một cầm một buông, mãi cho đến giờ thiên hạ vẫn lúng túng lầm lạc không phân biện được. Song thử nói xem lúng túng lầm lạc ở chỗ nào?

Tuyết Phong tuy đi khắp các nơi, song phải mãi đến khi ở khách điếm trên Ngao Sơn, nhờ Nham Đầu khích cho mới đạt đượcchỗ thấu triệt. Sau đó vì vụ đàn áp Phật Giáo, Nham Đầu phải làm người đưa đò bên hồ. Ở mỗi bên bờ có treo một tấm bảng, mỗi khi có ai muốn qua sông thì cứ gõ lên bảng. Tuyết Phong lại nói, “ Muốn qua bờ bên nào?” Rồi thì vừa khua mái chèo từ trong đám lau lách xuất hiện.

Tuyết Phong thì trở về Lĩnh Nam trú trì một ngôi am. Ông tăng kia cũng là người tham Thiền từ lâu, Tuyết Phong thấy họ đến dơ tay đẩy cửa rồi ló người ra hỏi,” Cái gì đây?” Tuyết Phong cúi đầu đi vào trong am. Đây thường được gọi là sự hiểu biết ngoài ngôn ngữ, cho nên ông tăng kia không biết đâu mà rờ. Có người bảo rằng Tuyết Phong bị ông tăng kia hỏi như thế, không trả lời được cho nên cúi đầu quay vào am. Đâu có biết rằng có chỗ độc hại trong ý của Tuyết Phong. Tuy rằng Tuyết Phong chiếm được thượng phong, song giấu người lại lộ bóng, biết làm thế nào bây giờ.

Sau đó ông tăng từ biệt Tuyết Phong, đem công án này đến chỗ Nham Đầu phán đoán. Vừa đến đó, Nham Đầu hỏi, “ Từ đâu đến?” Ông tăng nói, “ Từ Lĩnh Nam đến.” Nham Đầu hỏi, “Đã từng đến gặp Tuyết Phong chưa?” Nếu như các ông muốn thấy được câu hỏi này thì hãy mau ghé mắt nhìn. Ông tăng nói, “Đến rồi.” Nham Đầu nói, “ Thầy ta có lời dạy gì?” Câu hỏi này không phải chỉ là câu hỏi suông. Song ông tăng không hiểu, chỉ lo đuổi theo ngữ mạch của Nham Đầu rồi xoay chuyển theo đó, Nham Đầu nói, “ Thầy ta nói gì?” Ông tăng nói, “ Thầy ta chẳng nói gì cả mà chỉ cúi đầu đi vào am.” Ông tăng này chẳng hề biết rằng Nham Đầu đã đi dép cỏ trong bụng ông ta đến mấy vòng rồi.

Nham Đầu nói, “Ôi, đáng tiếc lúc đầu ta lại không nói câu cuối cùng cho thầy ta. Nếu như ta nói, người trong thiên hạ làm gì được lão Tuyết đây?” Nham Đầu cũng xu phụ kẻ mạnh mà không nâng đỡ kẻ yếu. Ông tăng này vẫn cứ tối ám chẳng phân biệt được kẻ rành với tay mơ. Ôm một bụng hoài nghi ông ta cứ tưởng rằng Tuyết Phong không hiểu. Đến cuối hạ ông tăng lại đề cập đến câu chuyện nọ để xin chỉ thị. Nham Đầu nói,” Tại sao không hỏi từ trước?” Lão hán này khéo so đo thật. Ông tăng nói, “ Không dám xem nhẹ.” Nham Đầu nói, “ Mặc dù Tuyết Phong cùng sinh trong một dòng với ta, song lại không chết trong cùng một dòng với ta. Nếu như ông muốn biết câu cuối cùng thì là cái này đây.” Nham Đầu quả thật không tiếc mày mắt. Rốt cuộc các ông phải hiểu như thế nào?

Tuyết Phong từng làm đầu bếp trong chúng hội của Đức sơn. Một hôm sắp đến bữa chiều, Đức Sơn ôm bát đi đến Pháp đường. Tuyết Phong nói, “Chuông chưa điểm trống chưa đánh, lão hán này vác bát đi đâu vậy kìa?” Đức Sơn không nói gì cả, chỉ cúi đầu quay về phương trượng. Tuyết Phong thuật chuyện này lại cho Nham Đầu. Nham Đầu nói, “Ngay cả Đức Sơn mà cũng chưa hiểu câu cuối.” Đức Sơn nghe thế bèn sai thị giả gọi Nham Đầu vào phương trượng hỏi rằng, “Ông không chấp nhận lão tăng à?” Nham Đầu bí mật bày tỏ. Hôm sau Đức Sơn thượng đường giảng dạy khác hẳn những lúc bình thường. Nham Đầu đứng trước tăng đường vỗ tay cười lớn, nói, “ May mà lão hán hiểu câu cuối! Sau này thiên hạ làm gì được lão. Tuy như thế, song lại chỉ được ba năm.”

Trong công án này thì lúc Tuyết Phong thấy Đức Sơn không nói gì cứ tưởng là thầy ta chiếm thượng phong, đâu dè mình gặp phải giặc rồi. Song bởi vì thấy ta từng gặp giặc cho nên sau này cũng biết làm giặc. Cổ nhân nói, “ Câu cuối cùng mới mở được nhà lao.” Có người bảo là Nham Đầu hơn Tuyết Phong. Họ hiểu lầm rồi. Nham Đầu hơn Tuyết Phong. Họ hiểu lầm rồi. Nham Đầu thường dùng tâm cơ này mà dạy chúng rằng, “ Kẻ mắt sáng chẳng có khuôn khổ gì, cướp vật là cao, theo vật là thấp. Câu cuối này, cho dù các ông có chính mắt thấy Tổ Sư đến đi nữa cũng chẳng hiểu được.”

Gần bữa cơm chiều, lão Đức Sơn tự ôm bát đi xuống Pháp đường. Nham Đầu nói, “Ngay cả Đức Sơn mà cũng chưa hiểu câu cuối.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Từng nghe nói độc nhãn long, té ra chỉ có mỗi một mắt. Đâu có dè rằng Đức Sơn chỉ là con cọp không răng. Nếu như không nhờ Nham Đầu hiểu thấu, làm sao mà chúng ta biết được rằng hôm qua và hôm nay khác nhau? Các ông có muốn hiểu câu cuối cùng chăng? Chỉ cho lão Hồ biết, không cho các lão Hồ hiểu?”

Từ xưa đến nay công án thiên sai vạn biệt, giống như một rừng gai góc. Nếu như các ông hiểu thấu được, người trong thiên hạ chẳng làm gì được các ông cả, tam thế chư Phật cũng phải đứng ở thế hạ phong. Nếu như các ông không hiểu thấu được, thì hãy ngẫm lời Nham Đầu nói, “Tuyết Phong tuy sinh trong cùng một dòng với ta song lại không cùng chết trong một dòng với ta.” Chỉ trong một câu này thôi tự nhiên có chỗ xuất thân. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Câu cuối cùng,

Nói cho ông,

Thời tiết của sáng tối song song:

Cùng sinh một dòng cùng biết nhau,

Không chết cùng dòng khác hẳn nhau.

Khác hẳn nhau,

Đầu vàng[1]mắt xanh[2] phải phân biệt.

Nam bắc đông tây quay về đi

Đêm sau cùng ngắm tuyết ngàn đỉnh.

BÌNH: “Câu cuối cùng , nói cho ông.” Tuyết Đậu tụng câu cuối cùng này, có ý ngật lực vì người khác. Tụng thật thiết tha, song chỉ tụng một chi tiết nhỏ mà thôi. Nếu như muốn nhìn thấu thì chưa được. Song thầy ta còn dám mở miệng lớn nói rằng, “Thời tiết của sáng tối song song” để mở ra một con đường cho các ông và cũng để giải quyết một lần cho xong. Cuối cùng lại chú giải thêm cho các ông nữa. Như Chiêu Khánh một hôm hỏi La Sơn rằng, “ Nham Đầu nói, “Như vầy như vầy, không như vầy không như vầy’ ý chỉ là như thế nào?” La Sơn gọi, “Đại Sư!” Chiêu Khánh đáp “ Vâng”.La Sơn nói, “ Vừa sáng vừa tối.” Chiêu Khánh cúi đầu lạy tạ rồi đi. Ba hôm sau lại hỏi La Sơn, “ Mấy hôm trước đây được hòa thượng từ bi chỉ dạy, song đệ tử vẫn chưa nhìn thấu được.” La Sơn nói, “ Tôi đã tận tình nói cả cho ông rồi mà.” Chiêu Khánh nói, “Xin hòa thượng cầm đuốc soi đường cho.” La Sơn nói, “ Nếu vậy thì đại sư cứ đem chỗ nghi ra hỏi đi.” Chiêu Khánh nói, “Vừa sáng vừa tối’ có nghĩa là gì?” La Sơn nói, “Đồng sinh cũng đồng tử.” Chiêu Khánh bèn cúi lạy cảm tạ rồi đi.

Sau đó có ông tăng hỏi Chiêu Khánh,” Đồng sinh với đồng tử thì như thế nào?” Chiêu Khánh nói, “Ngậm cái miệng chó kia lại.” Ông tăng kia nói, “Đại sư ngậm miệng mà ăn cơm.” Sao đó ông tăng kia đến hỏi La Sơn, “Lúc đồng sinh đồng tử thì như thế nào?” La Sơn nói, “Giống như con bò không có sừng.” Ông tăng lại hỏi, “ Lúc đồng sinh mà không đồng tử thì như thế nào?” La Sơn nói, “Như hổ mang sừng.” Câu cuối cùng chính là đạo lý này đây.

Trong chúng hội của La Sơn có ông tăng dùng ý này để hỏi Chiêu Khánh, Chiêu Khánh nói, “Ai nấy đều biết. tại sao vậy? Nếu như ta nói một câu ở Đông Thắng Thần Châu thì ở Tây Ngưu Hóa Châu cũng biết. Trên trời nói một câu, nhân gian cũng biết. Tâm tâm biết nhau, mắt mắt chiếu nhau.”

Sinh cùng một dòng thì kể còn dễ thấy. Không đồng tử trong một dòng thì hoàn toàn khác nhau, ngay cả Thích Ca với Bồ Đầ Đạt Ma cũng rờ rẫm không ra. “Nam bắc đông tây quay về đi.” Có một cảnh giới khá tốt.” Đêm sâu cùng ngắm tuyết ngàn đỉnh.” Thử nói xem, đây là “vừa sáng vừa tối.” đồng sinh trong một dòng,” hay “đồng tử trong một dòng”? Nạp tăng có mắt sáng thử phân biện xem sao.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26685)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28263)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29426)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33327)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21790)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30685)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31319)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37198)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32337)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27167)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20642)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22265)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 24015)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22881)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23238)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30447)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30118)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23144)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22348)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21804)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28253)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19293)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20185)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30948)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41551)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32762)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19143)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34043)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24983)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23705)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25346)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27796)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 25035)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23852)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58775)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23241)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20907)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28210)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28947)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19233)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24623)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21456)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23886)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28637)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29445)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17667)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31055)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25362)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18981)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20161)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23966)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19052)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20180)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20068)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24862)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19435)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22604)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61866)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31158)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22131)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant