Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bảy Mươi: Qui Sơn Đứng Hầu Bách Trượng

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15190)
Tắc thứ Bảy Mươi: Qui Sơn Đứng Hầu Bách Trượng

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 7

TẮC THỨ BẢY MƯƠI

QUI SƠN ĐỨNG HẦU BÁCH TRƯỢNG

 

THÙY: Người lanh một lời, ngựa nhanh một roi. Vạn năm một niệm, một niệm vạn năm. Cần hiểu trực tiếp, trước khi nêu lên. Thử nói xem, trước khi nêu lên thì biết phải rờ rẫm như thế nào? Thử nêu lên xem.

CỬ: Qui Sơn , Ngũ Phong và Vân Nham cùng đứng hầu Bách Trượng. Bách Trượng hỏi Qui Sơn, “Không có cổ họng với miệng môi, làm cách nào để nói đây?” Qui Sơn nói, “xin để hòa thượng nói vậy.” Bách Trượng nói, “Tôi không ngại gì mà không nói cho ông, song chỉ sợ sau này làm chết hết con cháu mà thôi.”

BÌNH: Qui Sơn, Ngũ Phong và Vân Nam cùng đứng hầu Bách Trượng. Bách Trượng hỏi Qui Sơn, “Không có cổ họng với miệng môi, làm cách nào để nói đây?” Qui Sơn nói, xin để hòa thượng nói vậy.” Bách Trượng nói, “Tôi không ngại gì mà không nói cho ông, song chỉ sợ sau này làm chết hết con cháu mà thôi.” Tuy Bách Trượng làm như thế, nơi của thầy ta đã bị người khác đoạt mất rồi. Bách Trượng lại hỏi Ngũ Phong. Ngũ Phong nói, “ Hòa thượng cũng nên im đi. ”Bách Trượng nói, “Ở chỗ không có ai, tôi lấy tay che mặt mà nhìn ông.” Bách Trượng lại hỏi Vân Nham. Vân Nham nói, “Hòa thượng đã có cách nói chưa?” Bách Trượng nói, “Ta đã làm chết hết con cháu rồi.” Ba người này mỗi người đều là một nhà.

Cổ nhân nói, “Trên đất bằng người chết vô số, vượt qua được rừng gai góc chính là tay hảo thủ.” Cho nên các bậc thầy trong tông môn của chúng ta mới dùng rừng gai góc ra để thử thách người khác. Tại sao vậy? Bởi vì làm sao có thể dựa vào lời lẽ thường tình để mà thử thách người khác được? Người nạo tăng phải biết trình cơ biến trong câu, phân biện ý trong ngôn ngữ. Còn như những kẻ khiêng ván thì chỉ bị vướng mắc trong ngôn ngữ, đi nói rằng, “Nếu như không có cổ họng với miệng môi thì không có cách chi để nói được cả.” Nếu như là người biện thông được, như sóng ngược dòng nước, chỉ có một con đường đối với câu hỏi mà thôi. Họ không bị phạm tay vào mũi nhọn.

Qui Sơn nói, “Xin để hòa thượng nói vậy?” Thử nói xem ý của thầy ta như thế nào? Qui Sơn giống như đá lửa điện chớp: Vừa gặp phải câu hỏi của Bách Trượng là lập tức trả lời ngay.Thầy ta có con đường xuất thân mà chẳng phí chút khí lực nào cả. Cho nên mới có câu nói rằng, “Thầy tat ham câu sống, không tham câu chết.” Bách Trượng lại chẳng buồn quan tâm đến Qui Sơn mà chỉ nói, “Tôi không ngại gì mà không nói cho ông, song chỉ sợ sau này làm chết hết con cháu mà thôi.” Các bậc tông sư bao giờ cũng giúp người khác nhổ đinh bạt chốt. Người bây giờ bèn nói rằng câu đáp của Bách Trượng có ý không chấp nhận Qui Sơn, và không hiểu câu nói của Qui Sơn. Đâu có dè rằng ở trong công án này có con đường đề tâm cơ linh hoạt, như vách núi vạn trượng, chủ khách hỗ tương một cách hết sứcsống động.

Tuyết Đậu thích ngữ khí của Qui Sơn, có cái uyển chuyển tự tại song vẫn có đầu mối vững vàng, cho nên mới tụng rằng:

TỤNG

Xin để hoà thượng nói,

Đầu cọp mọc sừng chốn cỏ hoang.

Mười châu xuân tàn hoa rơi rụng,

Mặt trời rực rỡ rừng san hô.

BÌNH:Ba người này cách trả lời của mọi người đều khác nhau. Người thì như vách núi vạn trượng, người thì có chiếu dụng đồng thời, kẻ thì tự cứu không được. “Xin để hòa thượng nói.” Ngay trong câu này Tuyết Đậu đã trình hiện tâm cơ của mình rồi. Lại khẽ tiến tới để cho người khác dễ thấy khi thầy ta nói thêm rằng, “Đầu cọp mọc sừng chốn cỏ hoang.” Câu trả lời của Qui Sơn giống như thể cắm sừng lên đầu cọp, có cách nào để đến gần được chăng?

Há không nghe có ông tăng hỏi La Sơn, “Đồng sinh mà không đồng tử thì như thế nào?” La Sơn nói, “Giống như con trâu không có sừng.” Ông tăng hỏi, “Thế còn đồng sinh đồng tử thì như thế nào?” La Sơn nói, “Giống như con cọp mọc sừng.”

Tuyết Đậu chỉ cần một câu là tụng xong cả. Thầy ta có thừa tài để mà chuyển biến, cho nên bèn nói, “mười châu xuân tàn hoa rọi rụng. Trên biển có ba núi, mười châu lấy trăm năm làm một mùa xuân. Lời của Tuyết Đậu uyển chuyển bàng bạc. Lúc mùa xuân, trăm ngàn vạn cây hoa đồng thời rơi rụng, chỉ có rừng san hô là không điêu linh mà thôi, cũng phản chiếu ánh sáng với vầng tháo dương. Đúng vào lúc ấy, quả thật là kỳ đặc biết mấy! Tuyết Đậu dùng hình ảnh này để minh giải lời của Qui Sơn rằng, “Xin để hòa thượng nói vậy.”
 
 

[1] “Vô duyên từ” là thứ từ bi cao cả nhất mà chỉ có bậc Bồ Tát mới thực hành được. Đó là một thứ từ bi “ vô điều kiện,” chỉ có được sau khi Bồ Tát đã chứng ngộ được “tính không”, không còn thấy bất cứ một dị biệt nào giữa mình và tất cả các chúng sinh. Trong Đại Thừa Phật Giáo (Duy Thức Tông) gọi đó là sự chứng ngộ được “ Bình Đẳng Tính Trí”(samatà-jnàna)

[2] “Hình” có nghĩa là “ hình tướng.”

[3] Tức Tăng Triệu.

[4] Kinh Duy Ma (Vimalakìrti-nirdesa-sutra), một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Phật Giáo Đại Thừa.

[5] Trích trong Chứng Đạo Ca của Vĩnh Gia Huyền Giác

[6] “Hữu tình” (sattva) có nghĩa là chúng sinh.

[7] Nguyên tác là chữ “diện” (mặt). Chữ diện trong trường hợp này ám chỉ “ Bổn lai diện mục”, cho nên chúng tôi dùng chữ tính.

[8] Ngụ ý nói rằng cái tâm bổn lai thanh tịnh chiếu diệu kia chính là Phật tính.

[9] Tức là ngồi trên ghế của bậc thầy.

[10] Những lời này trích từ Tuyết Đậu Hậu Lục.

[11] Căn tức là ngũ căn: mắt, tai, mũi,lưỡi và thân. Trần tức là đối tượng của ngũ căn này.

[12] Kinh Vệ Đà (veda) là bộ kinh chính yếu của Ấn Độ Giáo . Bốn bộ Veda gồm có: Rig-Veda,Atharva-Veda, Yajur-Veda và Sama-Veda.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26638)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28234)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29373)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33272)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21756)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30630)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31243)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37136)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32276)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27108)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20612)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22241)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23973)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22854)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23193)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30052)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23120)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22312)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21778)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28203)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19242)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20136)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30890)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41497)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32704)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19115)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 33994)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24961)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23675)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25302)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27754)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24990)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23818)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58667)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23194)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20880)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28147)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28901)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19203)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24580)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21416)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23823)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28598)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29394)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17635)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31009)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25315)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18945)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20119)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23937)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19034)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20149)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20029)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24814)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19394)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22553)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61806)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31127)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22104)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant