Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Chín Mươi Tám: Hai Cái Sai Của Thiên Bình Hòa Thượng

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14875)
Tắc thứ Chín Mươi Tám: Hai Cái Sai Của Thiên Bình Hòa Thượng

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI TÁM

HAI CÁI SAI CỦA THIÊN BÌNH HÒA THƯỢNG

 

THÙY: Suốt một mùa hè tạo dây dưa, kỷ hồ làm vướng ngũ hồ tăng. Kim Cương Bảo Kiếm chém thẳng xuống, mới biết xưa nay thiếu khả năng. Thử nói xem, Kim Cương Bảo Kiếm là gì? Mở mắt ra đi, tôi để lộ lưỡi kiếm cho các ông xem!

CỬ: Lúc Thiên Bình hòa thượng đi hành cước có đến tham kiến Tây Viện. Thường nói rằng, “Đường nói là ông hiểu Phật pháp, tìm một người cử được thoại đầu cũng chẳng ra.” Một hôm Tây Viện trông thấy Thiên Bình từ xa, gọi rằng, “Tùng Ỷ!” Thiên Bình ngẩng đầu. Tây Viện nói, “Sai!” Thiên Bình bước tới hai ba bước, Tây Viện lại nói, “sai!”Thiên Bình bước đến gần; Tây Viện nói, “Hai cái sai vừa rồi, là Tây Viện sai hay là thượng tọa sai?” Thiên Bình nói, “Tùng Ỷ sai.” Tây Viện nói, “Ở đây qua mùa hạ đi, rồi tôi sẽ cùng thượng tọa bàn về hai cái sai kia.” Thiên Bình lúc ấy vẫn bỏ đi.

Sau này lúc trụ viện, Thiên Bình nói với đại chúng rằng, “ Ban đầu lúc tôi đi hành cước , bị gió nghiệp thổi đến tận chỗ Tử Minh Trưởng Lão, Trưởng Lão nói, “Sai!” hai lần liên tiếp, rồi lại giữ tôi qua mùa hạ, để mà bàn luận. Không phải lúc đó tôi mới sai, ngay lúc khởi hành đi phương nam, tôi đã biết là sai rồi.”

BÌNH: Tử Minh thoạt tiên tham học với Đại Giác, sau đó thừa tự Bảo thụ. Một hôm hỏi, “Đập phá hóa thành thì như thế nào?” Bảo Thụ nói, “Kiếm sắc không chém người chết.” Tử Minh nói, “Cắt” Bảo Thụ bèn đánh. Tử Minh nói, “Cắt,” mười lần, Bảo Thụ cũng đánh mười lần và nói, “ Gã này không hiểu vội vã gì mà lại đem người chết ra chịu gậy đau như thế?” Rồi hét và đuổi Tử Minh ra ngoài. Lúc ấy có ông tăng hỏi Bảo Thủ , “Ông tăng vừa rồi hỏi câu hỏi kia có lý vô cùng, xin hòa thượng tiếp ông ta một cách khéo léo.” Bảo Thụ cũng đánh và đuổi ông tăng ra ngoài luôn. Thử nói xem, lúc Bảo Thụ đuổi ông tăng ra ngoài luôn. Thử nói xem, lúc Bảo Thụ đuổi ông tăng kia ra goài, chỉ bởi vì ông ta nói thị nói phi hay còn có lý do gì khác? Ý của thầy ta như thế nào? Sau này cả hai người kia (Tử Minh và ông tăng) đều thừa tự Bảo Thụ.

Một hôm Tử Minh đến gặp Nam Viện, Nam Viện hỏi, “Từ đâu tới?” Tử Minh nói, “Từ Hứa Châu tới.” Nam Viện nói, “Mang được cái gì tới?” Tử Minh nói, “Mang được lưỡi dạo cạo từ Giang Tây đến dâng cho hòa thượng.” Nam Viện nói, “Ông từ Hứa Châu đến tại sao lại có lưỡi dao cạo từ Giang Tây?” Tử Minh cầm tay Nam Viện bẹo một cái. Nam Viện nói, “ Thị giả đâu, lôi ông này ra ngoài xem!” Tử Minh phất tay áo một cái rồi bỏ đi. Nam Viện nói, “Ôi chao!”

Thiên Bình từng đến tham kiến Tiên Sơn. Bởi vì thầy ta đã đikhắp nơi tham được cái Thiền củ cải này để trong bụng, cho nên đến bất cứ đâu cũng mở miệng lớn tiếng nói, “tôi hiểu Thiền, hiểu đạo.” Thường nói, “Đừng nói là hiểu Phật pháp, kiếm một người cử được thoại đầu cũng chẳng có.” Cái thối tha của thầy ta vướng vàongười khác, chỉ tạo nên khinh bạc mà thôi.

Lúc chư Phật chưa xuất thế, Tổ Sư chưa từ Tây Trúc qua, chưa có vấn đáp, chưa có công án, còn có Thiền Đạo chăng? Cổ nhân bất đắc dĩ phải đối cơ mà giảng dạy, người đời sau gọi đó là “ công án”. Nhân Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp mĩm cười, sau đó A Nan hỏi Ca Diếp, “Thế Tôn ngoài việc truyền cà sa vàng còn truyền giáo pháp đặc biệt gì nữa không? Ca Diếp gọi, “A Nan!” A Nan nói, “Vâng?” ca Diếp nói, “Hạ cái cột cờ trước cổng xuống.” Song trước khi niêm hoa, trước khi Ca Diếp hỏi, ở chỗ nào mà có công án đây? Chỉ toàn vị các nơi lấy dấu ấn dưa hấu mà ấn, sau khi bị ấn xong lại nói, “tôi hiểu Phật pháp kỳ đặc, đừng cho người khác biết.”

Thiên Bình chính là như vậy đấy. Bị Tây Viện nói cho “Sai!” hai lần liên tiếp, bèn đâm ra lúng túng hoang mang không phânbiện gì được nữa, đúng là “ trước không đến được làng, sau chẳng đến được tiệm.” Có kẻ nói rằng vừa nói đến ý nghĩa của việc T3ô Sư từ Tây Trúc qua đã là sai rồi, hoàn toàn chẳng hiểu gì ý nghĩa hai cái “sai” này của Tây Viện là gì cả.Các ông thử nói cho tôi xem ý nghĩa của (hai cái “sai”này) là gì? Cho nên mới có lời nói rằng, “ Thầy ta tham câu sống không tham câu chết.” Thiên Bình vừa ngẩng đầu đã rơi ngay vào hai vào ba rồi. Tây Viện nói, “Sai!” Song (Thiên Bình) lại không hiểu được dụng xứ trực tiếp (của Nam Viện) mà lại chỉ nói, “Tôi có đầy một bnịg Thiền,” rồichẳng để ý đến Tây Viện,lại bước thêm hai ba bước nữa. Tây Viện lại nói, “Sai!” Thiên Bình vẫn cứ tối mò như thường và tiến đến gần Tây Viện. Tây Viện nói, “Hai cái sai vừa rồi là Tây Viện sai hay là thượng tọa sai?” Thiến Bình nói, “Tùng Ỷ sai.” May mà chẳng có gì là nhằm nhò cả. Thiên Bình đã rơi nhay vào thứ bẩy thứ tám rồi. Tây Viện nói, “Ở đây qua mùa hạ đi, rồi tôi sẽ cũng thượng tọa bàn về hai cái sai kia.” Thiên Bình lúc ấy vẫn bỏ đi. Thầy ta có vẻ đúng song không thật sự đúng. Tôi không nói là thầy ta không đúng, chỉ nói là thầy ta không đề lên được mà thôi. Tuy thế, song thầy ta vẫn còn có chút khí phách của một nạp tăng.

Sau này Thiên Bình trụ viện nói với đại chúng rằng, “ Ban đầu lúc tôi đi hành cước, bị gió nghiệp thổi đến tận chỗ của Tử Minh Trưởng Lão, Trưởng Lão nói, “ Sai!” hai lần liên tiếp, rồi lại giữ tôi lại qua mùa hè để bàn luận. Không phải lúc đó tôi mới sai, ngay lúc khởi hành đi phương nam tôi đã biết là sai rồi.” Lão này kể cũng được, có điều bị rơi vào hàng thứ bảy thứ tám, không có gì là nhằm nhò cả. Người thời này nghe thấy ta nói, “Ngay lúc khởi hành đi phương nam, tôi đã biết là sai rồi,” bèn ức đoán mà nói rằng, “Trước khi đi hành cước đã chẳng có nhiều đạo với Thiền gì, lúc đi hành cước thì lại bị các nơi lừa dối. Lúc chưa đi hành cước, gọi đất là trời gọi núi là sông; may mà chẳng có sự việc gì cả.” Nếu như các ông có thứ kiến thức thông tục như thế, tại sao không mua một cái mũ mà đội trong nhà chứ? Có dụng xứ gì đâu? Phật pháp đâu phải là đạo lý này. Nếu như luận về việc này, há lại có nhiều dâu dưa như thế chăng? Nếu như các ông nói, “Tôi hiểu, người khác không hiểu,” gánh một gánh Thiền đi quanh thiên hạ, lúc bị người đó mắt sáng khám phá, lại chẳng sử dụng được tí nào. Tuyết Đậu tụng đúng như thế.

TỤNG

Các Thiền gia,

Thích khinh bạc.

Tham đầy một bụng dùng chẳng được,

Đáng buốn đáng cười lão Thiên Bình.

Lại hận lúc đầu đã hành cước.

Sai, sai! 

Gió mát Tây Viện tan chẩy ngay.

Tuyết Đậu lại nói, “Nếu như có ông tăng bước ra nói, ‘Sai!’ Cái ‘sai” của Tuyết Đậu phải so sánh như thế nào với cái ‘sai’ của Thiên Bình.”

BÌNH: “Các Thiền gia, thích khinh bạc. Tham đầy một bụng dùng chẳng được.” Gã này hiểu thì có hiểu, chỉ có điều không sử dụng được. Thường đưa mắt lên trời cao rồi nói là mình hiểu Thiền bao nhiêu, đến khi bị họ nói lộ một chút thì lại chẳng sử dụng gì được cả. Ngũ Tổ nói, “Có một số người tham Thiền như thể trong bình lưu ly, không chuyển động được, không lay động được, song nếu đụng vào là vỡ ngay.” Nếu như muốn sống động thì cứ đi tham Thiền túi da, dù có ném từ trên núi cao xuống đi nữa cũng chẳng vỡ.” Cổ nhân nói, “Nếu như hiểu được ngay cả trước khi nói ra vẫn còn là bị niêm phong, dù cho có tinh thông được câu nói vẫn chưa tránh khỏi những kiến chấp điên khùng.”

“Đáng buồn đáng cười lão Thiên Bình, lại hận lúc đầu đã hành cước.’ Tuyết Đậu nói, đàng buồn vì thầy ta không giải thích được cho người khác, đáng cười là vì thầy ta biết cả một bụng Thiền mà không sử dụng được. “Sai, sai!” Hai cái sai này, có người bảo rằng thầy ta không nói tức là sai. Nhưng mà có gì là nhằm nhò đâu? Đâu có biết rằng hai cái sai này như thể đá lửa điện chớp, đó chính là nơi hành động của người hướng thượng, giống như dùng kiếm chém người, nắm ngay cổ họng người khác, lúc ấy mạng căng mới đứt đoạn. Nếu như các ông có thể đi được trên lưỡi kiếm này, thì các ông tha hồ tung hoành.Nếu như các ông hiểu được hai cái sai này các ông mới có thể thấy gió mát của Tây Viện thổi tan chảy. Tuyết Đậu sau khi thượng đường giảng công án này xong, ý muốn nói “sai”. Tôi thử hỏi các ông , cái “sai” của Tuyết Đậu phải so sánh như thế nào với cái sai của Thiên Bình? Tham Thiền ba mươi năm nữa đi!
Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI MỐT

TÊ GIÁC CỦA DIÊM QUAN

THÙY: Siêu tình ly kiến, cởi giây gỡ dính, đề khởi hướng thượng tông thừa, chống đỡ chính pháp nhãn tạng. Cần phải ứng đủ mười phương, rõ ràng tám hướng, đến thẳng cảnh giới như thế. Thử nói xem, còn có người cùng đắc cùng chứng cùng tử cùng sinh chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cho tôi cái quạt sừng tê giác xem.” Thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thị giả không trả lời được.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.”

Thạch Sương nói, “ Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nữa.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy. Tuyết Đậu niệm rằng, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?”

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

BÌNH: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cái quạt sừng tê giác đến cho tôi xem.” Việc này tuy không thuộc nơi ngôn ngữ, song nếu như muốn thử cái ý khí bình sinh của một người lại cũng cứ cần phải mượn vào ngôn ngữhiển thị. Vào ngày cuối cùng tháng cuối cùng, nếu như các ông vẫn còn ra sức được làm chủ tình thế được, thì dù cho có vạn cảnh đi nữa các ông vẫn có thể dững dưng nhìn mà chẳng bị đã động, đây có thể được gọi là công dụng không công dụng, sức mạnh không sức mạnh.

Diêm Quan tức là Tề An Thiền Sư, lúc trước có một cái quạt làm bằng sừng tê giác. Lúc đó há Diêm Quan lại không biết rằng cái quạt đã bị gẫy rồi sao? Thầy ta vẫn cố tình hỏi thị giả, thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Nhìn xem cổ nhân suốt hăm bốn giờ một ngày lúc nào cũng ở trong ấy, luôn luôn tiếp xúc với nó. Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thử nói xem, Diêm Quan mướn tê giác để làm gì? Thầy ta chỉ muốn thử thách người khác xem họ có hiểu ý chỉ của công án hay không mà thôi.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem nó tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu nói, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.” Thầy ta cũng dùng cơ biến ra đối lại trong câu nói ấy.

Thạch Sương nói, “Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nó nữa.” Tuyết Đậu nói, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy, bởi vì thầy ta là người thừa tự của Ngưỡng Sơn, cho nên bình sinh rất thích dùng cảnh để tiếp thiên hạ. Tuyết Đậu nói, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?” Xỏ luôn cả lỗ mũi của Từ Phúc.

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Lời nói nói ra một cách hết sức ẩn mật ổn thỏa. Ba lời trên vốn dễ thấy, chỉ có lời này là có ý nghĩa thâm sâu. Tuyết Đậu cũng đã phả luôn cả nó. Sư núi tôi lúc ở nơi của Khánh Tàng Chủ đã hiểu được. Thầy ta nói, “ Hòa thượng tuổi lớn già cả, được đầu quên đuôi, vừa rồi tìm cây quạt bây giờ lại kiếm tê giác. Thật là khó mà chiều ỳ, cho nên Bảo Phúc mới nói, “ Hòa thượng đừng hỏi người khác nữa có hơn không.” Tuyết Đậu nói, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

Tất cả những lời này đề thuộc vào cách thức “ hạ ngữ” ( nhận xét). Các cổ nhân nhìn thấu sự việc này, tuy rằng mỗi người khác nhau, song mỗi khi nói ra là đều bách phát bách trùng, luôn luôn có con đường xuất thân, chẳng câu nào lạc mất huyết mạch ( của tông môn) cả. Người thời nay mà bị hỏi là chỉ biết lý luận so đo, cho nên tôi mới muốn thiên hạ phải nhai nghiến vấn đề này suốt hăm bốn tiếng đồng hồ một ngày, khiến cho mọi giọt nước đều thành một giọt nước đá, tầm cầu chỗ chứng ngộ. Xem Tuyết Đậu tụng thành một chuỗi rằng:

TỤNG

Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu,

Hỏi đến té ra chẳng ai biết.

Gió mát vô hạn với cặp sừng,

Giống như mây mưa qua khó theo.

Tuyết Đậu lại nói , “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại , tôi xin mời các Thiền khách mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi. Lúc ấy có ông tăng bước ra nói, “ mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Tuyết Đậu hét nói, “ Thả câu câu kình ngư lại bắt được nhái bén.” Rồi xuống khỏi tòa.

BÌNH: “ Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu, hỏi đến té ra chẳng ai biết.” Ai cũng có một chiếc quạt sừng tê giác, suốt hăm bốn giờ một ngày đều được nó đắc lực, tại sao lúc hỏi đến lại chẳng ai biết? Thị giả, Đầu Tử cho đến Bảo Phúc chẳng một ai biết cả. Tuyết Đậu có biết không?

Há không nghe Vô Trước đến thăm Văn Thù, lúc họ đang uống trà, Văn Thù dơ chén pha lê lên hỏi, “ Phương nam có có cái này không?” Vô Trước nói, “ Không”. Văn Thù nói, “ Bình thường họ dùng gì để uống trà?” Vô Trước không nói gì được.Nếu như các ông hiểu được cốt yếu của công án này, các ông sẽ biết được rằng sừng tê giác có vô hạn gió mát, lại cũng thấy được cặp sừng lừng lững trên đầu tê giác.

Bốn lão hán này ăn nói như vầy giống nư mây sớm mưa chiều; một khi đã qua khó mà đuổi theo được. Tuyết Đậu lại nói, “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại, tôi xin mời các Thiền khác mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi.” Lúc ấy một Thiền khách bước ra nói, “ Mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Ông tăng này đoạt mất quyền bính của người chủ. Tuy rằng ông ta nói được một cách hết sức là xít xao song lại chỉ mới nói được có tám phần mà thôi. Nếu như các ông muốn cả mười phần, thì cứ lật đổ giường Thiền cho ông ta. Thử nói xem, ông tăng này có hiểu tê giác hay không? Nếu như không hiểu, ông lại biết cách nói như thế. Nếu như ông ta hiểu, tại sao Tuyết Đậu lại không chịu chấp nhận ông ta? Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Thả câu câu king ngư lại bắt được nhái bén?”

Thử nói xem, rốt cuộc là như thế nào? Các ông cử chỉ nên vô sự, thử niêm xuyết xem sao!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26661)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28246)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29393)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33298)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21777)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30670)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31280)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37162)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32317)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27143)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20624)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22261)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23998)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22869)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23211)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30426)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30102)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23136)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22333)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21795)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28238)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19269)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20172)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30921)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41532)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32738)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19128)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34022)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24974)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23691)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25328)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27776)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 25012)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23834)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58729)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23225)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20898)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28181)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28935)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19214)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24605)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21443)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23866)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28620)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29421)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17653)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31039)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25344)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18966)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20153)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23950)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19039)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20163)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20047)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24843)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19410)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22581)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61830)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31141)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22116)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant