Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Sáu Mươi Tám: Ngưỡng Sơn Hỏi Tam Thánh

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15439)
Tắc thứ Sáu Mươi Tám: Ngưỡng Sơn Hỏi Tam Thánh

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 7

TẮC THỨ SÁU MƯƠI TÁM

NGƯỠNG SƠN HỎI TAM THÁNH

 

THÙY: Lật thiên qua, xô trục đất; bắt cọp tê, phân rồng rắn. Phải là một tay hoạt bát mới có thể mỗi câu đều tương hợp, mỗi cơ đếu tương ứng. Song từ xưa đến giờ có ai được như thế? Thử nêu lên xem.

CỬ:Ngưỡng Sơn hỏi Tam Thánh, "Thầy tên gì?” Tam Thánh nói, “Huệ Tịch.” Ngưỡng Sơn nói, “Huệ Tịch là tôi.” Tam Thánh nói, “Tên tôi là Huệ Nhiên.” Ngưỡng Sơn cười ầm lên.

BÌNH: Tam Thánh là bậc tôn túc trong dòng Lâm Tế. Từ nhỏ đã có khả năng xuất chúng. Thầy ta có đủ đại cơ đại dụng; lúc ở trong chúng hội, rất là hiên ngang lững lẫy, tên tuổi vang rền khắp nơi. Sau đó thầy ta từ giã Lâm Tế rồi đi vân du khắp miền Hoài Nam và Hải Châu. Các tự viện khắp nơi đều đãi Tam Thánh như thể khách quí. Tam Thánh đi từ bắc xuống nam, thoạt tiên đến gặp Tuyết Phong hỏi rằng, “Con cá vàng đã thoát lưới, chẳng hay lấy gì làm đồ ăn?” Tuyết Phong nói, “Đợi khi nào ông ra khỏi lưới tôi sẽ nói cho ông nghe.” Tam Thánh nói, “Là bậc thiện tri thức của một ngàn năm trăm người mà không nói được lấy một câu.” Tuyết Phong nói, “Việc trụ trì của lão tăng bề bộn quá.” Lúc Tuyết PhongTam Thánh đi về phía trang viên của Tự viện, giữa đường gặp một bầy khỉ, Tuyết Phong bèn nói,” Mỗi con đều mang một cổ kính.” Tam Thánh nói, “Bao nhiêu kiếp không có tên, cớ sao lại gọi là cổ kính?” Tuyết Phong nói, “Đã có tì vết rồi.” Tam Thánh nói, “Bậc thiện tri thức của một ngàn năm trăm người mà không nói lấy được một câu.” Tuyết Phong nói, “Có lỗi thật, việc trụ trì của lão tăng bề bộn quá.”

Sau đó Tam Thánh đến gặp Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn rất yêu cái linh lợi của Tam Thánh cho nên để cho ngồi chỗ danh dự. Một hôm có vị quan nhân đến tham kiến Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn nói, “Quang ở chức vị nào vậy?” Vị quan nói, “Quan tòa.” Ngưỡng Sơnphất trần lên nói, “Có xử được cái này không?” Vị quan kia không nói gì được. Mọi người trong chúng hội đều bình phẩm song chẳng ai khế hợp với ý của Ngưỡng Sơn cả. Lúc ấy Tam Thánh bệnh nằm trong Diên Thọ Đường; Ngưỡng Sơn sai thị giả đem lời ấy đến hỏi Tam Thánh. Tam Thánh nói, “Hòa thượng có việc rồi.” Ngưỡng Sơn lại sai thị giả đến hỏi, “Chưa rỏ là việc gì.” Tam Thánh nói, “Phạm nữa là không dung thứ đâu.” Ngưỡng Sơn rất là bằng lòng.

Bách Trượng lúc ấy đã trao lại thiền bảnbồ đoàn cho Hoàng Bá, trụ trượngphất trần cho Qui Sơn; Qui Sơn sau đó trao lại cho Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn rất là ưng ý với Tam Thánh, một hôm Tam Thánh từ biệt, Ngưỡng Sơn lấy trụ trượngphất trần ra trao lạo cho Tam Thánh. Tam Thánh nói, “Kẻ hèn này đã có thầy rồi.” Ngưỡng Sơn hỏi rõ, thì ra đó là đệ tử của Lâm Tế.

Lúc Ngưỡng Sơn hỏi Tam Thánh, “Thầy tên gì?” Ngưỡng Sơn không thể nào mà lại chẳng biết tên Tam Thánh, tại sao lại vẫn cứ đi hỏi như thế? ấy là vì các bậc chuyên gia muốn thử thách thiên hạ để tìm hiểu họ cho rõ ràng. Một câu hỏi chỉ tựa như hỏi cho có rằng, “Thầy tên gì?” và lại hỏi một cách chẳng có gì so đo. Tại sao Tam Thánh không nói “Huệ Nhiên” mà lại đi nói “Huệ Tịch”? Nhìn xem những người có mắt, tự nhiên là không giống (những kẻ bình thường.) Tam Thánh hành sư như thế chẳng có gì là điên đảo tuy rằng thầy ta giựt cờ cướp trống. Ý của thầy ta ở ngoài ngôn ngữ của Ngưỡng Sơn. Những lời này không theo thường tình , rất khó mà rờ rẫm. Phương pháp của con người này có thể cứu sống thiên hạ, cho nên mới có câu nói, “Thầy ta tham câu sống mà không tham câu chết.” Nếu như tuân theo thường tình, ắt chẳng làm cho thiên hạ ngồi nghỉ được.

Nhìn xem các cổ nhân niệm Đạo như thế. Dùng hết tinh thần của mình cho nên mới đại ngộ được. Sau khi ngộ rồi, lúc dụng thì lại giống y như thể chưa ngộ vậy đó. Dù sao đi nữa, một lời hay nửa câu của họ cũng chẳng theo thường tình. Tam Thánh biết chỗ cốt yếu của Ngưỡng Sơn cho nên mới nói với thầy ta rằng, “Tên tôi là Huệ Tịch.” Ngưỡng Sơn muốn thu Tam Thánh, rốt cuộc Tam Thánh lại thử Ngưỡng Sơn muốn thu Tam Thánh, rốt cuộc Tam Thánh lại thử Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn chỉ còn biết trả đũa bằng cách nói, “Huệ Tịch là tôi.” Đây chính là chỗ thầy ta buông bỏ. Cho nên sau đó Tuyết Đậu mới nói, “Vừa thu vừa buông, đâu là tông chỉ?” Chỉ trong một câu mà thầy ta một lúc tụng ráo hết.

Ngưỡng Sơn cười ầm lên “ Ha ha!” Vừa có quyền vừa có thực, vừa có chiếu vừa có dụng. Bởi vì thầy ta tám hướng lung linh, cho nên chỗ đứng của thầy ta mới được đại tự tại như thế. Tiếng cười này không giống với tiếng cười của Nham Đầu; trong tiếng cười của Nham Đầuđộc dược, song trong tiếng cườinày thì thiên cổ vẫn có gió thổi lạnh căm. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG:

Vừa thu vừa buông tông chỉ đâu?

Cưỡi cọp cần phải có tuyệt kỹ

Cười rồi chẳng biết đi về đâu,

Chỉ là thiên cổ động bi phong.

BÌNH: “ Vừa thu vừa buông tông chỉ đâu?” Buông bỏ thay phiên đóng vai chủ và khách. Ngưỡng Sơn hỏi, “ Thầy tên gì?” Tam Thánh nói, “ Tên tôi là Huệ Tịch.” Đó là đều buông bỏ, Ngưỡng Sơn nói, “ Huệ Tịch là tôi.” Tam Thánh nói,” Tôi tên là Huệ Nhiên.” Đây là đều thu vào. Kỳ thực , đây là cái gọi là “ hô hoán chi cơ.” Thu vào thì mọi người đều thu vào, buông bỏ thì mọi người đều buông bỏ. Tuyết Đậu trong một lúc tụng hết cả. Ý thầy ta muốn nói rằng nếu không buông không thu không hổ tương với nhau thì ông là ông tôi là tôi.

Tất cả chỉ nằm trong bốn chữ, tại sao lại có chìm hiện cuống trải như thế? Cổ nhân nói, “Nếu như ông đứng thì tôi ngồi, nếu như ông ngồi thì tôi đứng. Nếu như chúng mình cùng ngồi cùng đứng, thì chúng mình đều là những kẻ mù.” Đây là đều thu vào đều buông bỏ, có thể coi là tông chỉ.’ Cưỡi cọp cần phải có tuyệt kỹ.” Nếu như các ông có cao phong như vậy cơ biến tối thượng như vậy, thì các ông muốn cưỡi là cưỡi, muốn xuống là xuống. Muốn ngồi trên đầu cọp cũng được mà muốn ngồi trên đuôi cọp cũng được. Cả Tam Thánh lẫn Ngưỡng Sơn đều có cái phong cách này.

“Cưỡi rồi chẳng biết đi về đâu.” Thử nói xem, thầy ra cười cái gì vậy? Giống như thể cơn gió trong lạnh ngắt. Tại sao Tuyết Đậu rốt cuộc lại nói rằng, “Chỉ là thiên cổ động bi phong”? Đây cũng là chết mà không có điếu tang, trong chớp nhoáng đã chú giải hết chỗ các ông. Có điều trong thiên hạ chẳng ai cắn vào được cả, bởi vì họ không hiểu chỗ cốt yếu của Ngưỡng Sơn. Ngay cả sư núi tôi cũng chẳng biết. Các ông có biết chăng?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26685)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28263)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29426)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33325)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21789)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30685)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31317)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37196)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32337)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27166)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20641)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22265)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 24015)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22881)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23238)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30446)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30117)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23144)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22348)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21804)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28253)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19293)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20185)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30948)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41551)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32762)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19143)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34042)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24983)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23705)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25346)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27796)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 25033)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23851)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58774)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23241)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20907)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28209)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28947)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19232)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24623)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21454)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23885)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28636)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29445)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17667)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31055)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25361)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18981)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20160)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23966)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19052)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20180)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20068)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24861)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19435)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22604)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61865)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31158)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22130)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant