Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm thứ ba: Đức Diệu Giác Như Lai phân thân vào Trung Ấm

29 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8914)
Phẩm thứ ba: Đức Diệu Giác Như Lai phân thân vào Trung Ấm

KINH TRUNG ẤM
Hán dịch: Sa môn Trúc Phật Niệm 
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang

KINH TRUNG ẤM: QUYỂN THƯỢNG

PHẨM THỨ BA 
ĐỨC DIỆU GIÁC NHƯ LAI PHÂN THÂN VÀO TRUNG ẤM

Lúc đó ở Tòa trên có Bồ Tát tên là Định Hóa Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, gối hữu chấm đất, quỳ xuống chấp tay bạch Phật rằng: Lành thay! Thế Tôn! Xin Ngài vì chúng sanh thuyết nghĩa lý rõ ràng, âm hưởng đã hướng thì nghe pháp dễ độ.

Lại có người khó độ, xét chúng sanh có người dâm, nộ, si ít, có người dâm, nộ, si nhiều; hoặc người có đối pháp, người không có đối pháp; hoặc người có thể thấy pháp, người không thể thấy pháp; hoặc người hữu lậu pháp, người vô lậu pháp; hoặc người ở hữu vi pháp, người ở vô vi pháp; hoặc người có thể ký pháp, người không có thể ký pháp; hoặc người đang ở pháp dục giới; hoặc người đang ở pháp không giải thoát; hoặc người ở pháp sắc giới, người ở pháp vô sắc giới, hoặc người ở pháp Trung Ấm vi hình, người đang ở pháp Trung Ấm phi vi hình; hoặc người đang ở pháp ngũ sắc thức, người đang ở pháp ngũ sắc phi thức; hoặc người đang ở pháp phi tưởng, phi bất tưởng thức, người không ở pháp phi tưởng, phi bất tưởng thức; hoặc người đang ở nhất trụ cho đến cửu trụ, người đang ở nhất trụ, phi nhất trụ. Có người đang ở cửu trụ, phi cửu trụ… cúi mong Đức Thế Tôn mỗi mỗi diễn rộng, làm cho các vị Bồ Tát hết hẳn do dự, các hàng chúng sanh nghe pháp được giải thoát.

Thế rồi Đức Thế Tôn dùng tiếng Phạm tịnh êm ái, khen Bồ Tát Định Hóa Vương rằng: Lành thay! Lành thay! Đức Bồ Tát. Ông đã ở trước Như Lai làm Sư Tử Hống, ngay đây Ta sẽ phân biệt từng chi tiết cho ông. Hãy lắng nghe kỹ và suy nghĩ điều mà ông đã hỏi:

Có thể thấy pháp và không thể thấy pháp đó, vì mắt thấy sắc, vì sắc đập vào mắt. Bồ Tát Định Hóa Vương nói: Không có con mắt để thấy sắc, cũng không lìa mắt, và không có sắc để đập vào mắt, cũng không lìa sắc.

Phật bảo Bồ Tát Định Hóa Vương: Này Bồ Tát, mắt chẳng phải sắc, sắc chẳng phải mắt, vậy cái gì là thấy? Bồ Tát Định Hóa Vương bạch Phật rằng: Thức pháp thực trụ, quán pháp mới khởi.

Phật bảo Bồ Tát Định Hóa Vương: Thế nào Bồ Tát? Thức là hữu pháp hay thức là vô pháp? Bồ Tát Định Hóa Vương bạch Phật rằng: Thức chẳng phải hữu vi nhưng không lìa hữu vi. Thức chẳng phải vô vi nhưng không lìa vô vi.

Phật hỏi Bồ Tát Định Hóa Vương: Thế nào là hữu vi, thế nào là vô vi? Bồ Tát Định Hóa Vương bạch rằng: Khởi là hữu vi, trụ là vô vi. Đối với pháp Đệ nhất nghĩa thì không thấy không khởi, không thấy đang trụ, pháp tánh thanh tịnh không sắc không thức. Đối với pháp Nê Hoàn không chỗ nhiễm trước, mắt chẳng phải sắc, không thể thấy pháp và không không thể thấy pháp. Mắt đã qua, sắc đã qua và thức đã qua. Mắt sẽ đến, sắc sẽ đến và thức đã qua. Mắt bây giờ, sắc bây giờ và thức bây giờ. Chẳng có mắt, sắc và thức, chẳng phải không có mắt, sắc và thức. Đây là pháp Nê Hoàn thanh tịnh.

Lúc này Bồ Tát Định Hóa Vương muốn nghe Như Lai nói hữu đốivô đối. Phật hỏi Bồ Tát Định Hóa Vương rằng: Tiếng có đối tượng hay không có đối tượng? Bồ Tát Định Hóa Vương bạch: Tiếng cũng có đối tượng và cũng không có đối tượng. Phật bảo rằng: Tiếng thì không có đối tượng và cũng không phải không có đối tượng, thế nào Định Hóa Vương? Cái nầy thanh cái kia ứng là có là không, là hư hay là thật? Ông nghĩ sao, hư không có thể viết thành chữ chăng? Định Hóa Vương trả lời: Bạch Thế Tôn, không thể được. Vì sao vậy? Như Lai vun bồi các hạnh ở vô số kiếp, cũng không thấy có, cũng không thấy không; cũng không thấy có ba đời, cũng không thấy không có ba đời, cho đến chẳng phải tưởng, chẳng phải không tưởng cũng lại như vậy.

Bấy giờ Bồ Tát Định Hóa Vương bạch Phật rằng: Các pháp quán trên mỗi mỗi đều đã hiểu. Chỉ mong Như Lai Chí Chơn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn nói ba pháp vi diệu. Điều gì tối diệu ở Trung Ấm Hình, Ngũ Sắc Thức Hình và Phi Tưởng, Phi Bất Tưởng Thức?

Lúc này Đức Thế Tôn biết tâm của chúng hội đều khởi lòng nghi bèn ở trên tòa mà nói kệ rằng: 

Ta chịu khổ ba cõi 
Tâm ngu hoặc ái si 
Vô số kiếp đã qua 
Chấp cóchấp không 
Phá hoại kiếp luân hồi 
Nay mới được thành Phật 
Đem thệ nguyện rộng lớn 
Độ mọi loài chưa độ 
Phật lực không gì hơn 
Ba cõi ai bằng Phật 
Một hướng không hai tâm 
Tự thề được thành Phật 
Ta từ Phật Chính Chú 
Sơ phát vô đẳng tâm 
Dục phược nơi trói buộc 
Kiên cố khó chặt xong 
Định khôngvô tướng nguyện 
Phân biệt ba Tam Muội 
Trước niệm hơi ra vào 
Suy lường đường thiện ác 
Quyết một lòng tinh tấn 
Bước đi không thất nghi 
Như người thấy đại hỏa 
Đốt cháy người tội nặng 
Phước sanh Quang Âm Thiên 
Phương khác, người mỏng phước 
Hàng chúng sanh ba phẩm 
Trung Ấm khi thọ hình 
Đổi thay không lường nổi 
Ngoài Ta ai nói được 
Năm Sắc Thức chúng sanh 
Bất đồng trong tam giới 
Bậc Tối thắngNhư Lai 
Vào thức kia giáo hóa 
Nói ngọn ngành phân biệt 
Trăm tám ái, chẳng rong 
Muốn thành Tu Đà Hoàn 
Thì nói Tu Đà Hoàn 
Muốn thành A Na Hàm 
Thì nói A Na Hàm 
Muốn thành A La Hán 
Thì nói A La Hán 
Muốn thành Bích Chi Phật 
Thì nói Bich Chi Phật 
Người muốn Bồ Tát Đạo 
Thì nói pháp Bồ Tát 
Bậc đắc Tu Đà Hoàn 
Ba mươi hai ức người 
Bậc đắc Tư Đà Hàm 
Có bốn mươi hai ức 
Bậc đắc A Na Hàm 
Có năm mươi hai ức 
Bậc đắc A La Hán 
Sáu mươi hai ức vị 
Bậc đắc Bích Chi Phật 
Thì bảy mươi hai ức 
Bậc đắc Bồ Tát Đạo 
Tám mươi hai ức vị 

Bấy giờ Đức Thế Tôn lập lại kệ rằng: 

Ta vốn không tâm pháp 
Tạm dùng giáo hóa thôi 
Thấy khói biết rằng lửa 
Nhìn mây biết có mưa 
Cất bước biết quân tử 
Trông sao biết có trăng 
Ta trừ hết ngã tâm
Không ngã – không vô ngã 
Trãi qua nhiều số kiếp 
Chẳng tính được tháng ngày 
Phật dùng tư duy chứng 
Phàm phu nào hiểu được 
Lành thay Đại Thánh Tôn 
Độ khắp cõi mười phương 
Rời khỏi pháp Dục Giới 
Giáo hóa Trung Ấm thân 
Giáo pháp chư Phật là 
Vào Ấm không thấy nó 
Các hàng chúng sanh này 
Phát nguyện đều khác biệt 
Ta trói buộc chính ta 
Ta – kia cùng một thể 
Phải dùng tư duy bổn 
Tư duy Bổn mạt quán 
Mỗi ý niệm dấy lên 
Dứt trừ nào khó lắm 
Trần cấu mạnh hơn ta 
Ta rớt ba đường ác 
Nay ta mạnh hơn nó 
Diệt nó chứng Niết Bàn 
Lành thay Đại Thánh Tôn 
Độc bước chưa ai hơn 
Thấy Tối Đại Thánh Tôn 
Diêm Phù người được độ 
Thân hành thì có ba 
Khẩu hành thì có bốn 
Và ý hành ba điều 
Biển não phiền tử sanh 
Chín chúng sanh cư ngụ 
Chỗ của thức đi qua 
Phân biệt ta – không ta 
Không ta và không người 
Các Chư Phật Thế Tôn 
Tâm rộng không ngằn mé 
Mỗi ý niệm chúng sanh 
Tiếp nhận không giới hạn 
Thân tịnh không làm ác 
Lời nói thường thanh tịnh 
Tâm tịnh như tâm Phật 
Đó là pháp Chư Phật 
Thân là pháp khí khổ 
Đâu phải chỉ ba đời 
Ngoài ta ai biết được 
Ai biết đường khổ đây 
Công đức của Như Lai 
Chư tướng nào sánh được 
Tướng ngực như sư tử 
Mỗi chân lông phát quang 
Lòng tay nghìn bánh xe 
Chỉ dạy đường thiện ác 
Lưỡi, răng toát ánh quang 
Cứu độ nhiều vô số 
Mắt, tai, mũi và tóc ... 
Đỉnh nhục kế ai bì 
Hư không còn thể hết 
Phật tướng khó suy lường 

Ngay khi Như Lai nói kệ này xong có tám mươi ức chúng sanh Trung Ấm ở cõi Vô dư Niết Bàn phát tâm Kim Cang, cứ mỗi chúng sanh thành Phật cùng đồng một hiệu với Đức Diệu Giác Như Lai.

Đức Phật bảo Bồ Tát Định Hóa Vương: Điều mà ông hỏi như hữu lậuvô lậu; có đối đãi – không có đối đãi; có thể thấy – không thể thấy; pháp quá khứ hiện tại và tương lai; nay ta sẽ nói cho ông.

Bồ Tát Định Hóa Vương bạch rằng: Thế Tôn, con mong muốn được nghe. Đức Phật bảo Bồ Tát Định Hóa Vương rằng: Hãy lắng nghe cho kỹ và khéo suy nghĩ, Ta sẽ phân biệt rõ cho ông. Thế nào Định Hóa Vương? Điều gì là duyên hết? Điều gì là không duyên hết? Trần cấu của sáu nhập rất nặng, khiến cho Ta mê ái các pháp. Pháp quán chiếu trong ngoài, ra vào của hơi thở. Tám muôn bốn nghìn pháp đắc Niết Bàn. Mỗi tư tưởng phát khởi không thể diệt, thì mỗi ý nghĩ sẽ thành hình tướng đó. Có tám vạn bốn nghìn hữu lậu và ba mươi bảy vô lậu, pháp hữu vivô vi; đều chẳng phải là con đường của Niết Bàn

Thân tịnh không làm ác 
Miệng nói lời chân thật 
Tâm tịnh cùng với Định 
Bốn điều khắp tất cả 
Hạnh Bồ Tát chính là.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12566)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9954)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10174)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12355)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15349)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12111)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12091)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12559)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12272)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13533)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11850)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11643)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14525)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12619)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11171)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13057)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15320)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12223)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11489)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14276)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19710)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24615)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant