Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

26-2. Phẩm Tứ ý đoạn (2)

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10715)
26-2. Phẩm Tứ ý đoạn (2)

KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 1

XXVI.2. Phẩm Tứ ý đoạn (2)

Thế Tôn bảo A-nan:

- Nay Thầy hãy đưa Xá-lợi của Xá-lợi-phất đến đây.

Tôn giả A-nan đáp:

- Xin vâng, Thế Tôn.

Tôn giả A-nan liền trao Xá-lợi vào tay Thế Tôn. Thế Tôn cầm Xá-lợi rồi bảo các Tỳ-kheo:

- Ðây là Xá-lợi của Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, là bậc trí tuệ, thông minh, tài cao, bao nhiêu loại trí: trí không cùng, trí không bờ đáy, có trí mau chóng, có trí khinh tiện, có trí lợi cơ, có trí rất sâu, có trí xét kỹ, ít muốn, biết đủ, ưa ở chỗ vắng vẻ, có lòng dũng mãnh, việc làm không rối loạn, tâm không khiếp nhược, hay nhẫn nhục, trừ bỏ pháp ác, thể tánh nhu hòa, không ưa tranh tụng, hằng tu tinh tấn, hành chánh định, tập trí tuệ, niệm giải thoát, tu hành thân giải thoát tri kiến.

Tỳ-kheo nên biết, ví như đại thọ không có cành nhánh; nay trong Tỳ-kheo Tăng, Như Laiđại thọ, Xá-lợi-phất diệt độ rồi, Ta như cây không cành. Nếu Xá-lợi-phất đi đến phương nào, phương đó liền gặp may mắn lớn lao, mong Xá-lợi-phất dừng lại ở phương đó. Sở dĩ như thế, vì Tỳ-kheo Xá-lợi-phất hay cùng ngoại đạo dị học luận nghị, ai cũng bị hàng phục.

Bấy giờ Ðại Mục-kiền-liên nghe Tôn giả Xá-lợi-phất diệt độ, liền dùng thần thông đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy Phật rồi đứng một bên. Tôn giả Mục-kiền-liên bạch Thế Tôn:

- Nay Tỳ-kheo Xá-lợi-phất đã diệt độ. Nay con từ biệt Thế Tôn, con cũng muốn diệt độ.

Thế Tôn im lặng chẳng đáp. Như thế hai ba phen bạch Thế Tôn:

- Con muốn diệt độ.

Bấy giờ Thế Tôn vẫn im lặng chẳng đáp. Tôn giả Mục-kiền-liên thấy Thế Tôn im lặng chẳng đáp, liền cúi lạy Phật rồi lui đi. Tôn giả trở về Tinh xá, thu xếp y bát, ra khỏi thành La-duyệt, tự đến quê mình. Bấy giờ có đông chúng Tỳ-kheo theo sau Tôn giả Mục-liên. Chúng Tỳ-kheo cùng Tôn giả Mục-liên đến thôn Ma-sấu, du hóa tại đó và mắc bịnh nặng.

Lúc ấy, Tôn giả Mục-liên ở giữa đất trống trải, tòa mà ngồi, nhập Sơ thiền; từ Sơ thiền dậy, nhập Nhị thiền; từ Nhị thiền dậy, nhập Tam thiền; từ Tam thiền dậy, nhập Tứ thiền; từ Tứ thiền dậy, nhập Không xứ, từ Không xứ dậy, nhập Thức xứ, từ Thức xứ dậy, nhập Bất dụng xứ; từ Bất dụng xứ dậy, nhập Hữu tưởng vô tưởng xứ; từ Hữu tưởng vô tưởng xứ dậy, nhập Hỏa quang tam-muội; từ Hỏa quang tam-muội dậy, nhập Thủy quang tam-muội; từ Thủy quang tam-muội dậy, nhập Diệt tận định.

Từ Diệt tận định dậy, nhập Thủy quang tam-muội; từ Thủy quang tam-muội dậy, nhập Hỏa quang tam-muội; từ Hỏa quang tam-muội dậy, nhập Hữu tưởng vô tưởng định; từ Hữu tưởng vô tưởng định dậy, nhập Bất dụng xứ; từ Bất dụng xứ dậy, nhập Thức xứ, Không xứ, Tứ thiền, Tam thiền, Nhị thiền, Sơ thiền.

Từ Sơ thiền dậy, bay lên hư không, ngồi, nằm, kinh hành. Thân trên ra lửa, thân dưới ra nước. Hoặc thân dưới ra lửa, thân trên ra nước, làm mười tám cách biến hóa thần túc.

Bấy giờ Tôn giả Mục-kiền-liên bay xuống tòa, ngồi kiết-già, chính thân, chính ý, buộc niệm ở trước và nhập Sơ thiền; từ Sơ thiền dậy, nhập Nhị thiền; từ Nhị thiền đậy, nhập Tam thiền; từ Tam thiền dậy, nhập Tứ thiền; từ Tứ thiền dậy, nhập Không xứ; từ Không xứ dậy, nhập Thức xứ; từ Thức xứ dậy, nhập Bất dụng xứ; từ Bất dụng xứ dậy, nhập Hữu tưởng vô tưởng xứ; từ Hữu tưởng vô tưởng xứ dậy, nhập Hỏa quang tam-muội; từ Hoa quang tam-muội dậy, nhập Thủy quang tam-muội; Từ Thủy quang tam-muội dậy, nhập Diệt tận định.

Từ Diệt tận định dậy, Tôn giả trở lại nhập Thủy quang tam-muội, Hỏa quang, Hữu tưởng vô tưởng xứ, Bất dụng xứ, Thức xứ, Không xứ, Tứ thiền, Tam thiền, Nhị thiền, Sơ thiền.

Lại từ Sơ thiền dậy, Tôn giả nhập nhị thiền; từ Nhị thiền dậy, nhập Tam thiền; từ Tam thiền dậy, nhập Tứ thiền, từ Tứ thiền dậy, ngay đó mà diệt độ.

Bấy giờ Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên đã diệt độ rồi, mặt đất chấn động rất lớn. Chư Thiên bảo nhau hiện đến, hầu hạ Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên, cúng dường tôn đức, hoặc đem các thứ hương hoa đến cúng dường; chư Thiên ở không trung xướng kỹ nhạc, gẩy đàn, ca múa dâng cúng lên Tôn giả Mục-kiền-liên.

Lúc ấy Tôn giả Ðại Mục-kiền-liên đã diệt độ, trong thôn Nan-la-đà trong vòng một do-tuần, chư Thiên đầy dẫy. Bấy giờ lại có nhiều chúng Tỳ-kheo cầm các thứ hương hoa rải trên xác Tôn giả Mục-kiền-liên.

Ðức Thế Tôn từ thành La-duyệt tuần tự khất thực cùng năm trăm Tỳ-kheo du hóa trong nhân gian, đến thôn Na-la-đà cùng với năm trăm Tỳ-kheo. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên diệt độ chưa bao lâu. Ðức Thế Tôn ngồi giữa đất trống, im lặng quan sát các Tỳ-kheo. Im lặng quan sát các Tỳ-kheo xong, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta quan sát các Thầy trong chúng này bị tổn giảm to lớn. Vì sao thế? Nay trong chúng này không có Tỳ-kheo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Nếu phương nào có Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đi đến phương ấy liền chẳng trống rỗng mà được nghe nay Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên ở tại phương này. Sở dĩ như thế vì Tỳ-kheo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên kham nhận hàng phục ngoại đạo ở đây.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Việc làm của chư Phật rất kỳ đặc. Có hai đệ tử trí tuệthần túc nhập Niết-bàn. Nhưng Như Lai không sầu lo. Ngay cả hằng sa Như Lai đời quá khứ cũng lại có đệ tử trí tuệ, thần túc này và ngay đến chư Phật ra đời ở tương lai cũng sẽ có đệ tử trí tuệ, thần túc này.

Tỳ-kheo nên biết, thế gian có hai nghiệp thí. Thế nào là hai? Nghĩa là tài thípháp thí. Tỳ-kheo nên biết, nếu luận về tài thí, thì nên theo Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên mà cầu. Nếu muốn cầu pháp thí, nên theo cầu Ta. Sở dĩ như thế, vì nay Ta, Như Lai không có tài thí. Hôm nay các Thầy có thể cúng dường Xá-lợi của Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên.

Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Làm sao cúng dường được Xá-lợi của Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên.

Thế Tôn bảo:

- Nên gồm các thứ hương hoa, ở ngã tư đường lập bốn tháp. Vì sao thế? Nếu có dựng tháp thì có bốn loại người này nên dựng tháp. Thế nào là bốn? Chuyển luân Thánh vương nên dựng tháp; A-la-hán lậu tận nên dựng tháp; Bích-chi Phật nên dựng tháp; Như Lai nên dựng tháp.

Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:

- Có nhân duyên gì mà Như Lai nên dựng tháp? Lại có nhân duyên gì nên dựng tháp cho Bích-chi Phật, A-la-hán lậu tậnChuyển luân Thánh vương?

Thế Tôn bảo:

- Nay Thầy nên biết, Chuyển luân Thánh vương thi hành thập thiện, tu mười công đức, cũng lại dạy người hành thập thiện công đức. Thế nào là mười? Tự mình không sát sanh, lại dạy người khác khiến không sát sanh. Tự mình không trộm, lại dạy người khác khiến không trộm. Tự mình không dâm, lại dạy người khác khiến không dâm. Tự mình không ỷ ngữ, lại dạy người khác khiến không ỷ ngữ. Tự mình không tật đố, lại dạy người khác khiến không tật đố. Tự mình không tranh tụng, lại dạy người khác khiến không tranh tụng. Tự mình chính ý, lại dạy người khác khiến không loạn ý, Thân tự chính kiến, lại dạy người khác khiến hành chính kiến.

Tỳ-kheo nên biết, Chuyển luân Thánh vương có mười công đức này, nên xứng đáng dựng tháp.

Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:

- Lại do nhân duyên nào, nên dựng tháp cho đệ tử Như Lai?

Thế Tôn bảo:

- A-nan nên biết, A-la-hán lậu tận không còn thọ thân sau nữa; trong sạch như thiên kim; ba độc, năm kiết sử không còn xuất hiện. Lại nữa, do nhân duyên này dựng tháp cho đệ tử Như Lai.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Do nhân duyên nào, Bích-chi Phật đáng được dựng tháp?

Thế Tôn bảo:

- Có Bích-chi Phật không thầy tự ngộ, trừ các kiết sử, không thọ thân sau nữa. Thế nên đáng dựng tháp.

Bấy giờ A-nan bạch Thế Tôn:

- Lại do nhân duyên nào xứng đáng dựng tháp cho Như Lai?

Thế Tôn bảo:

- Ở đây, này A-nan, Như LaiThập lực, Tứ vô sở úy, kẻ không hàng phục bị hàng phục; kẻ không độ được độ; kẻ không đắc đạo khiến cho đắc đạo; người không nhập Niết-bàn khiến nhập Niết-bàn. Mọi người thấy rồi hết sức hoan hỉ.

Ðó là, này A-nan, Như Lai đáng được dựng tháp. Như thế Như Lai đáng được dựng tháp. Bấy giờ A-nan nghe Thế Tôn dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Tôn giả Bà-ca-lê thân mắc bịnh nặng, đại tiểu tiện tại chỗ, ý muốn dùng dao tự sát mà không ngồi dậy. Tôn giả Bà-ca-lê bảo thị giả:

- Nay Con hãy đem dao đến! Ta muốn tự sát. Sở dĩ như thế là vì trong số đệ tử của Phật Thích-ca Văn, hôm nay, người có tín giải thoát không ai hơn ta. Nhưng nay ta tâm hữu lậu chẳng giải thoát. Sở dĩ như thế là vì đệ tử của Như Lai lúc gặp khổ não cũng lại tìm dao tự sát. Nay ta dùng mạng này vì chẳng thể từ bờ này đến bờ kia.

Bấy giờ, đệ tử của Bà-ca-lê xuất gia chưa bao lâu, chưa biết đời này, đời sau, chẳng biết từ bờ này đến bờ kia, cũng lại chẳng biết chết đây rồi sanh nơi khác, liền đưa dao cho Tôn giả. Tôn giả Bà-ca-lê cầm dao rồi, đem lòng tin kiên cố cầm dao tự đâm mình. Ngài Bà-ca-lê lấy dao tự đâm mình và nghĩ: 'Trong đệ tử Phật Thích-ca Văn có việc làm phi pháp, bị lợi ác, chẳng được lợi lành, ở trong pháp Như Lai chẳng được thọ chứng mà mạng chung'.

Bấy giờ Tôn giả Bà-ca-lê liền tư duy Ngũ thạnh ấm. Ðó là sắc này, đó là sắc tập, đó là sắc diệt tận. Ðó là thọ, tưởng, hành, thức; đó là thọ, tưởng, hành, thực tập; đó là thọ, tưởng, hành thức diệt tận. Ngài tư duy Ngũ thạnh ấm này thuần thục. Các pháp có sanh đều là pháp tử. Biết thế rồi, tâm hữu lậu liền được giải thoát.

Bấy giờ Tôn giả Bà-ca-lê ở Vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn. Thế Tôn dùng thiên nhĩ, nghe Tôn giả Bà-ca-lê đòi dùng dao tự sát, Thế Tôn bảo A-nan:

- Các Tỳ-kheo tại thành Xá-vệ hãy tập trung về một chỗ. Ta muốn dạy bảo.

Tôn giả A-nan vâng lời Thế Tôn, liền triệu tập các Tỳ-kheo tại giảng đường Phổ Tập, rồi trở về bạch Thế Tôn:

- Hôm nay Tỳ-kheo đã tụ tập một chỗ.

Thế Tôn liền đem Tỳ-kheo Tăng vây quanh trước sau, đến tinh xá của Tỳ-kheo Bà-ca-lê. Ngay lúc ấy, tệ ma Ba-tuần muốn biết thần thức của Tôn giả Bà-ca-lê đang ở chỗ nào: 'Ở cõi Người hay Phi nhân, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-câu-la, Ma-hầu-la-già, Dạ-xoa? Nay thần thức này trọn sanh chỗ nào?' Xem khắp Ðông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới mà chẳng biết chỗ của thần thức, Ma Ba-tuần thân thể hết sức mỏi mệt mà chẳng biết ở đâu.

Bấy giờ Thế Tôn cùng Tỳ-kheo Tăng vây quanh trước sau, đến tinh xá kia. Thế Tôn thấy Ma Ba-tuần muốn biết thần thức ở đâu. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy có nghe trong tinh xá này có tiếng lớn chăng? Lại còn ánh sáng yêu quái nữa?

Các Tỳ-kheo đáp:

- Vâng, Thế Tôn, chúng con đã thấy.

Thế Tôn bảo:

- Ðây là tệ ma Ba-tuần muốn biết thần thức Bà-ca-lê ở đâu.

Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:

- Cúi mong Thế Tôn nói thần thức của Tỳ-kheo Bà-ca-lê ở chỗ nào?

Thế Tôn bảo:

- Thần thức của Tỳ-kheo Bà-ca-lê trọn không chỗ dính mắc. Vị vọng tộc đó đã nhập Niết-bàn, nên nhận biết như thế.

Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:

- Tỳ-kheo Bà-ca-lê này đắc Tứ đế khi nào?

Thế Tôn bảo:

- Trong ngày hôm nay đắc Tứ đế này.

A-nan bạch Phật:

- Tỳ-kheo này mắc bệnh đã lâu, vốn là người phàm.

Thế Tôn bảo:

- Ðúng vậy, A-nan! Như lời Thầy nói, Tỳ-kheo ấy bịnh khổ rất lâu. Trong các đệ tử của Phật Thích-ca Văn có tín giải thoát, người này hơn hết. Nhưng tâm hữu lậu chưa được giải thoát. Thầy ấy tự nghĩ: 'Nay ta nên dùng dao để tự đâm mình'. Tỳ-kheo ấy lúc sắp đâm mình, liền tư duy công đức của Như Lai. Ngày xả bỏ thân mạng, vị ấy tư duy Ngũ thạnh ấm: đó là sắc tập này, sắc diệt tận này. Bấy giờ Tỳ-kheo ấy tư duy như thế rồi, các pháp hữu lậu đều được diệt tận. Tỳ-kheo này đã nhập Niết-bàn.

A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Pháp của Tứ ý đoạn,
Tứ ám, pháp già suy,
A-di, pháp gốc ngọn,
Xá-lợi, Bà-ca-lê. 

HẾT TẬP I
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31384)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26259)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27572)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27956)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26752)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31272)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20317)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22999)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30117)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21643)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20323)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22709)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20814)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30382)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28841)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34784)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44265)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35570)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22593)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21413)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20722)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24808)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37988)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19102)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19378)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21868)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20907)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29561)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35217)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28870)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32638)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26275)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28978)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43203)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 35001)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 44018)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37953)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21365)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43077)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49059)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39904)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53838)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36864)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40863)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49780)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47383)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27795)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27062)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27258)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24106)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20889)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34350)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22524)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25166)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25908)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22999)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22516)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21787)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23360)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21211)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant