Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

48-2. Phẩm Thập bất thiện (2)

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10765)
48-2. Phẩm Thập bất thiện (2)

KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 3

XXXXVIII.2. Phẩm Thập bất thiện (2)

4. Tôi nghe như vầy,

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, phần đông các Tỳ-kheo nhóm họp tại giảng đường Phổ Hội, mỗi người khởi luận nghị thế này: 'Nay Như Lai rất kỳ lạ, rất đặc biệt đối với các đức Phật quá khứ đã nhập Niết-bàn, cũng lại biết tên họ, chủng tộc kia, trì giới, tùy tùng, thảy đều biết rõ, tam-muội, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, thọ mạng dài ngắn, thảy đều biết. Thế nào chư Hiền? Ðó là Như Lai phân biệt pháp xứ rất thanh tịnh, mà biết tên họ, chỗ phát xuất của chư Phật kia chăng? Hay là chư Thiên đến chỗ Phật mách bảo?'

Bấy giờ, Thế Tôn dùng Thiên nhĩ nghe thấu điều bàn luận của đa số các Tỳ-kheo, bèn đến chỗ các Tỳ-kheo, ngồi vào tòa chính giữa. Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy nhóm ở đây bàn luận việc gì? Muốn nói pháp gì?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Chúng con nhóm ở đây bàn về yếu chỉ Chánh pháp. Mọi người dấy khởi luận nghị này: 'Như Lai rất kỳ lạ, rất đặc biệt, mới có thể biết tên họ, danh hiệu của các đức Phật Thế Tôn quá khứ, trí tuệ nhiều ít thảy đều biết rõ. Rất lạ thay! Thế nào, chư Hiền, là Như Lai phân biệt pháp giới rất thanh tịnh, biết tên họ nơi phát xuất của chư Phật kia chăng? Hay là chư thiên đến chỗ Phật mách bảo chăng?

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy muốn nghe sức trí thần của chư Phật quá khứ chăng? Muốn biết tên họ, danh hiệu, thọ mạng dài ngắn chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Nay chính đúng thời, cúi xin Thế Tôn diễn bày nghĩa ấy.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các thầy khéo nghĩ nhớ, Ta sẽ vì các thầy nói rộng nghĩa này.

Bấy giờ đại chúng Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, Phật bảo:

- Tỳ-kheo nên biết! Quá khứ chín mươi mốt kiếp về trước, có Phật xuất thế, hiệu Tỳ-bà-thi Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, ba mươi mốt kiếp về trước có Phật xuất thế hiệu Thi-khí Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác. Lại, trong kiếp ba mươi mốt ấy có Phật hiệu là Tỳ-xá-la-bà Như Lai xuất thế. Trong Hiền kiếp này có Phật xuất thế hiệu Câu-lâu-tôn Như Lai. Lại trong Hiền kiếp ấy có Phật xuất thế hiệu Câu-na-hàm-mâu-ni Như Lai Chí chơn Ðẳng Chánh Giác. Lại trong Hiền kiếp có Phật xuất thế hiệu Ca-diếp. Lại trong Hiền kiếp, Ta xuất thế là Thích-ca Văn Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, Phật bèn nói kệ:

Trong chín mươi mốt kiếp,
Phật Tỳ-bà-thi,
Trong kiếp ba mươi mốt,
Phật thi-khí xuất hiện.
Cũng trong Hiền kiếp ấy,
Phật Tỳ-xá xuất hiện,
Ngày nay trong Hiền kiếp,
Bốn Phật lại xuất thế.
Câu-tôn, Na, Ca-diếp
Như trời chiếu thế gian,
Muốn biết tên họ ấy,
Danh hiệu kia như thế.

Phật Tỳ-bà-thi phát xuất từ dòng Sát-lợi. Phật Thi-khí cũng phát xuất từ dòng Sát-lợi. Phật Tỳ-xá-la-bà cũng phát xuất từ dòng Bà-la-môn. Phật Câu-lưu-tôn xuất phát từ dòng Bà-la-môn. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni phát xuất từ Bà-la-môn, Phật Ca-diếp phát xuất từ dòng Bà-la-môn. Như nay Ta phát xuất dòng Sát-lợi.

Phật bèn nói kệ:

Các Phật trước, xuất hiện,
Ðều từ dòng Sát-lợi,
Câu-tôn đến Ca-diếp,
Xuất từ Bà-la-môn.
Trên hết không ai sánh,
Nay Ta, thầy Trời Người,
Các căn đều vắng lặng,
Xuất từ dòng Sát-lợi.

Phật Tỳ-bà-thi họ Cù-đàm, Phật thi-khí cũng họ Cù-đàm, Phật Tỳ-xá-la-bà cũng họ Cù-đàm. Phật Ca-diếp họ Ca-diếp. Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm-mâu-ni cũng từ họ Ca-diếp như trên không khác. Nay Ta, họ Cù-đàm.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Ba đức Phật ban đầu,
Ðều từ họ Cù-đàm,
Ba Phật sau, Ca-diếp,
Ðều từ họ Ca-diếp.
Như Ta ở hiện tại,
Trời, Người đều kính vâng,
Các căn rất vắng lặng,
Xuất từ họ Cù-đàm.

Tỳ-kheo nên biết! Phật Tỳ-bà-thi họ Câu-lân-nhã. Phật Thi-khí cũng từ Câu-lân-nhã. Phật tỳ-xá-la-bà cũng từ Câu-lân-nhã. Phật Câu-lưu-tôn từ Bà-la-đọa. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni cũng từ Bà-la-đọa. Phật Ca-diếp cũng từ Bà-la-đọa. Như Ta ngày nay, Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác phát xuất từ Câu-lân-nhã.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Ba đức Phật ban đầu,
Xuất từ Câu-lân-nhã,
Ba Phật sau, Ca-diếp,
Xuất từ Bà-la-đọa.
Như Ta ở hiện tại
Trời, Người đều kính vâng,
Các căn rất vắng lặng
Xuất từ Câu-lân-nhã.

Phật Tỳ-bà-thi ngồi dưới cội cây hoa Ba-la-lợi thành Phật đạo. Phật Thi-khí ngồi dưới cội cây Phân-đà-lợi thành Phật đạo. Phật Tỳ-xá-la-bà ngồi dưới cội cây Ba-la thành Phật đạo. Phật Câu-lưu-tôn ngồi dưới cội cây Thi-lợi-sa thành Phật đạo. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni ngồi dưới cột cây Ưu-đầu-bạt-la thành Phật đạo. Phật Ca-diếp ngồi dưới cội cây Ni-câu-lưu thành Phật đạo. Như Ta ngày nay ngồi dưới cội cây Cát tường thành Phật đạo.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Phật ban đầu hành đạo,
Dưới cây Ba-la-lợi,
Thi-khí, Phân-đà-lợi,
Tỳ-xá, cây Ba-la,
Câu-tôn, cây Thi-lợi,
Câu-na, cây Bạt-la,
Ca-diếp, cây Câu-lưu,
Ta thành đạo, Cát tường.
Bảy Phật, trời trong trời,
Chiếu sáng nơi thế gian,
Nhân duyên ngồi dưới cây,
Ðều thành đạo quả Phật.

Phật Tỳ-bà-thi có mười sáu vạn tám nghìn đệ tử. Phật Thi-khí có mười sáu vạn đệ tử. Phật Tỳ-xá-la-bà có mười vạn đệ tử. Phật Câu-lưu-tôn có tám vạn đệ tử. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni có bảy vạn đệ tử. Phật Ca-diếp có sáu vạn đệ tử. Như Ta ngày nay có một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử đều là bậc A-la-hán, các lậu vĩnh viễn chấm dứt, không còn các trói buộc.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Trăm ngàn sáu vạn tám,
Ðệ tử Tỳ-bà-thi,
Trăm ngàn và sáu vạn,
Ðệ tử Phật Thi-khí,
Trăm ngàn chúng Tỳ-kheo,
Ðệ tử Ty-xá-bà,
Câu-tôn, tám vạn chúng,
Câu-na-hàm, bảy vạn,
Ca-diếp, sáu vạn chúng,
Ðều là A-la-hán.
Nay Ta là Thích-ca,
Nghìn hai trăm năm mươi,
Ðều là hạnh Chơn nhơn,
Giáo hóahiện tại,
Pháp để lại, đệ tử.
Số ấy không thể tính.

Phật Tỳ-bà-thithị giả tên Ðại Ðạo Sư, Phật-Thi-khí có thị giả tên Thiện Giác. Phật Tỳ-xá-la-bà có thị giả tên Thắng Chúng. Phật Câu-lưu-tônthị giả tên Cát Tường. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni có thị giả tên Tỳ-la-tiên. Phật Ca-diếpthị giả tên Ðạo Sư. Thị giả hiện nay của Ta tên A-nan.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Ðại Ðạo và Thiện Giác,
Thắng Chúng và Cát Tường,
Tỳ-la-tiên, Ðạo Sư,
A-nan, hàng thứ bảy,
Người này cúng dường Thánh,
Không câu nệ thời giờ,
Ðọc tụng và thọ trì,
Không mất nghĩa lý kia.

Phật Tỳ-bà-thi thọ tám vạn bốn nghìn tuổi. Phật Thi-khí thọ bảy vạn tuổi. Phật Tỳ-xá-la-bà thọ sáu vạn tuổi. Phật Câu-lưu-tôn thọ năm vạn tuổi. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni thọ bốn vạn tuổi. Phật Ca-diếp thọ hai vạn tuổi. Như Ta ngày nay tuổi thọ giảm xuống rất nhiều, thọ mạng nhiều nhất không quá trăm tuổi.

Thế Tôn bàn nói kệ:

Phật đầu, tám vạn tư,
Phật kế, bảy vạn tuổi
Tỳ-xá-bà, sáu vạn,
Câu-lưu-thọ năm vạn, 
Hai vạn cộng hai vạn,
Tuổi thọ Câu-na-hàm,
Ca-diếp thọ hai vạn
Chỉ Ta thọ trăm năm.

Như thế, này các Tỳ-kheo! Như Lai quán sát biết tên họ, danh hiệu của chư Phật, thảy đều rành rẽ, dòng họ, xuất xứ đều thấu triệt, trì giới, trí tuệ, thiền định, giải thoát, thảy đều biết rõ.

Bấy giờ, tôn giả A-nan bạch Phật:

- Như Lai cũng nói: Hằng sa chư Phật đã diệt độquá khứ, Như Lai cũng biết. Hằng sa chư Phật tương lai sẽ xuất hiện, Như Lai cũng biết. Vì sao Phật không dự ký việc làm của bao nhiêu Phật, mà nay chỉ nói về sự việc của bảy đức Phật?

Phật bảo A-nan:

- Ðều có gốc ngọn nhân duyên nên Ta nói sự việc của bảy đức Phật. Hằng sa chư Phật thời quá khứ cũng chỉ nói về sự việc của bảy đức Phật. Tương lai, khi Phật Di-lặc xuất hiện, cũng sẽ chỉ dự ký về sự việc của bảy đức Phật. Nếu khi Phật Sư Tử Ứng ra đời, cũng sẽ chỉ nói về sự việc của bảy đức Phật. Nếu khi Phật Thừa Nhu Thuận ra đời, cũng sẽ chỉ nói về sự việc của bảy đức Phật. Nếu khi Phật Quang Diệm ra đời, cũng sẽ chỉ nói về sự việc bảy đức Phật. Nếu khi Phật Vô Cầu xuất hiện, cũng sẽ chỉ nói về sự việc của Phật Ca-diếp. Nếu khi Phật Bảo Quang ra đời, cũng sẽ nói về sự việc của Phật Thích-ca Văn.

Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:

Sư tử, Thừa Nhu, Quang,
Vô Cấu và Bảo Quang,
Thứ lớp sau Di-lặc,
Ðều sẽ thành Phật đạo.
Di-lặc ghi Thi-khí
Sư Tử ghi Tỳ-xá
Nhu Thuận ghi Câu-tôn
Quang Diệm ghi Mâu-ni
Vô Cấu ghi Ca-diếp,
Ðều nói duyên đời trước,
Bảo Quang thành Phật sau,
Cũng sẽ ghi hiệu Ta.
Chư Phật đời quá khứ,
Và chư Phật tương lai,
Ðều dự ghi bảy Phật
Gốc ngọn việc xa xưa.

Do nhân duyên này, nên Như Lai ghi danh hiệu bảy đức Phật.

A-nan bạch Phật:

- Kinh này tên gì? Nên phụng trì thế nào?

Phật bảo A-nan:

- Kinh này tên 'Ghi danh hiệu Phật', nên ghi nhớ vâng làm.

Bấy giờ, A-nan và các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước La-duyệt, vườn trúc Ca-la-đà.

Bấy giờ, trưởng giả Sư Tử đã đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, cúi đầu lễ chân Tôn giả, lui ngồi một bên. Trưởng giả Sư Tử bạch Tôn giả Xá-lợi-phất:

- Cúi xin Tôn giả nhận lời thỉnh của con.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất im lặng nhận lời. Trưởng giả thấy Tôn im lặng nhận lời,liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ chân Tôn giả rồi lui. Trưởng giả lại đến chỗ các vị Mục-kiền-liên, Ly-việt, Ðại Ca-diếp, A-na-luật, Ca-chiên-diên, Mãn-từ Tử, Ưu-ba-ly, Tu-bồ-đề, La-vân và Sa-di Quân-đầu ... thỉnh các thượng thủ như thế, gồm năm trăm người.

Trưởng giả Sư Tử liền trở về, sắm sửa đủ các thức ăn uống rất ngon, trải tòa ngồi đẹp, rồi đến thưa rằng:

- Ðến giờ, các vị A-la-hán chân nhân đã không từ chối. Nay thức ăn đã dọn, cúi xin quang lâm đến nhà.

Bấy giờ các đại Thanh văn đều đắp ba y, mang bát, vào thành đến nhà trưởng giả. Trưởng giả thấy chư tôn đều vào chỗ đã định, bèn tự tay mình sớt các thức ăn uống. Thấy Thánh chúng ăn xong, đem nước sạch rửa tay, cúng dường mỗi vị một tấm lụa trắng, trước từng người, nhận lời chú nguyện.

Tôn giả Xá-lợi-phất vì trưởng giả nói pháp vi diệu, rồi rời tòa đi ra, trở về tịnh thất. Bấy giờ, Tôn giả La-vân đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên. Phật hỏi:

- Hôm nay Thầy từ nơi nào đến?

La-vân thưa:

- Hôm nay có trưởng giả Sư Tử thỉnh.

Phật hỏi:

- Thế nào, La-vân! Thức ăn ngon hay không ngon, là tế hay là thô?

La-vân thưa:

- Thức ăn rất ngon và nhiều. Tấm lụa trắng này là do trưởng giả ấy cúng.

Phật bảo La-vân:

- Chúng Tăng có bao nhiêu người? Ai là Thượng tọa?

La-vân bạch Phật:

- Tôn giả Xá-lợi-phất là Thượng thủ, và chư đệ tử Thần đức năm trăm người.

Phật bảo La Vân:

- Thế nào, La Vân! Trưởng giả ấy được phước nhiều chăng?

La Vân bạch Phật:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Trưởng giả ấy được phước báu không thể tính kể. Cúng một A-la-hán, phước ấy khó hạn lượng, huống gì là bậc thần diệu lớn, Người, Trời đều cung kính. Nay năm trăm người đều là Chân nhân, phước ấy làm sao có thể lường.

Phật bảo La-vân:

- Nay công đức cúng dường năm trăm La-hán, nếu thứ lớp thỉnh một Sa-môn trong chúng, thỉnh rồi cúng dường thì so sánh phước cúng dường do chúng cử, và phước cúng cho năm trăm La-hán, phước trên hơn gấp trăm ngàn lần, ức vạn lần, không thể dùng thí dụ so sánh. Vì sao? Người do chúng cử, phước khó hạn lượng, đến chỗ cam lồ, diệt tận. La-vân nên biết! Như có người tự thệ rằng: 'Tôi sẽ uống nước của các sông ngòi'. Người ấy có kham chăng?

La-vân bạch Phật:

- Thưa không, bạch Thế Tôn! Vì sao? Ðất Diêm-phù này rất rộng lớn, cõi này có bốn con sông lớn. Một là sông Hằng, hai là sông Tân-đầu, ba là sông Tư-đà, bốn là sông Bác-xoa, mỗi con sông có năm trăm sông nhỏ, song người ấy không thể uống hết nước, chỉ nhọc sức mà việc không thành.

Phật bảo:

- Người ấy lại nói thế này: 'Ta tự có phương tiện nhân duyên, có thể uống hết nước'. Thế nào là nhân duyên uống hết nước'. Thế nào là nhân duyên uống hết nước? Người ấy nghĩ thế này: 'Ta sẽ uống nước biển. Vì sao? Tất cả các dòng sông đều đổ vào biển'. Thế nào, La-vân! Người ấy có thể uống hết nước chăng?

La-vân bạch Phật:

- Phương tiện như thế, có thể uống hết nước khiến cạn. Vì sao? Tất cả các dòng sông đều đổ vào biển. Do nhân duyên này, người ấy uống hết nước.

Phật bảo La-vân:

- Ðúng thế, La-vân! Tất cả sự cúng dường riêng như dòng sông, hoặc được phước hoặc không được phước. Chúng Tăng như biển lớn. Vì sao? Vì nước sông, suối đều chảy về biển và mất tên riêng của nó, chỉ có tên biển lớn. La-vân! Ðây cũng như thế. Nay mười hạng người này đều xuất phát từ trong chúng, không có chúng không thành. Thế nào là mười? Ðó là Hướng Tu-đà-hoàn, Ðắc Tu-đà-hoàn; Hướng Tư-đà-hàm, Ðắc Tư-đà-hàm; Hướng A-na-hàm, Ðắc A-na-hàm, Hướng A-la-hán, Ðắc A-la-hán, Bích-chi Phật và Phật. Ðó là mười bậc đều do trong chúng, không tự đứng riêng rẽ.

La-vân! Do phương tiện này nên biết, người do chứng cử, phước ấy không thể hạn lượng. Cho nên, La-vân! Thiện nam tử, thiện nữ chơn muốn cầu phước vô lượng, nên cúng dường Thánh chúng. La-vân nên biết! Cũng như có người đem bơ bỏ vào nước, bơ không tan, không lan rộng. Nếu đem dầu chế vào nước, dầu lan đầy trên mặt, cho nên, này La-vân! Nên nghĩ cúng dường Thánh chúng Tỳ-kheo Tăng. Như thế, La-vân, nên học điều này!

Bấy giờ trưởng giả Sư Tử nghe Phật khen ngợi, nói về phước cúng dường chúng, không khen nói phước khác. Vào dịp khác, trưởng giả đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên. Trưởng giả Sư Tử bạch Phật:

- Vừa nghe Như Lai khen ngợi phước bố thí cho chúng, không khen ngợi phước thỉnh riêng người. Từ nay về sau, con sẽ thường cúng dường Thánh chúng.

Phật bảo:

- Ta không nói thế này: 'Nên cúng dường Thánh chúng, đừng cúng đường người khác'. Nay bố thí cho súc sanh còn được phước, huống gì người khác. Ta chỉ nói phước có nhiều, ít. Vì sao? Thánh chúng của Như Lai đáng kính, đáng quý, là phước điền trên hết của thế gian. Nay trong chúng này có hàng hướng về bốn quả, đắc bốn quả và Thanh văn thừa, Bích-chi Phật thừa, Phật thừa. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn được đạo quả Tam thừa, nên từ trong chúng tìm cầu. Vì sao? Ðạo quả Tam thừa đều phát xuất từ chúng Tăng. Trưởng giả! Ta quan sát nghĩa lý nhân duyên này nên nói lời này. Ta cũng không dạy người nên bố thí cho Thánh chúng mà không nên bố thí cho người khác.

Trưởng giả bạch Phật:

- Ðúng thế, như lời Phật dạy. Từ nay về sau, nếu làm phước nghiệp, con sẽ cúng dường hết Thánh chúng, không chọn người để bố thí.

Bấy giờ Thế Tôntrưởng giả nói pháp vi diệu, khiến sanh tâm vui mừng. Trưởng giả nghe pháp xong liền đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, lui ra.

Trưởng giả Sư tửý muốn bố thí, tạo phước nghiệp. Bấy giờ chư Thiên đến nói:

- Ðây là người Hướng Tu-đà-hoàn, đây là người Ðắc Tu-đà-hoàn. Bố thí người này phước nhiều, bố thí này được phước ít.

Chư Thiên liền nói kệ:

Như Lai khen chọn thí,
Cho các Ðại đức này,
Cúng đây, được phước nhiều,
Như ruộng tốt mọc lúa.

Trưởng giả Sư Tử im lặng không trả lời.

Chư Thiên lại nói với trưởng giả:

- Ðây là người trì giới, đây là người phạm giới, đây là người Hướng Tu-đà-hoàn, đây là người Ðắc Tu-đà-hoàn. Ðây là người Hướng Tư-đà-hàm, đây là người Ðắc Tư-đà-hàm. Ðây là người Hướng A-na-hàm, Ðây là người đắc A-na-hàm. Ðây là người Hướng A-la-hán, đây là người Ðắc A-la-hán. Ðây là Thanh văn thừa, đây là Bích-chi thừa, đây là Phật thừa. Cho đây được phước ít, cho đây được phước nhiều.

Trưởng giả Sư Tử im lặng không đáp. Vì sao? Vì ông chỉ nhớ lời dạy bảo của Phật, không lựa chọnbố thí.

Lại vào thời gian khác, trưởng giả đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên, thưa rằng:

- Con tự nhớ, khi con thỉnh Thánh chúng thọ trai, có chư Thiên đến với con rằng: 'Ðây là người trì giới, đây là người phạm giới. Người này Hướng Tu-đà-hoàn, người này Ðắc Tu-đà-hoàn, cho đến hàng Tam thừa, thảy đều phân biệt, Chư Thiên lại nói kệ này:

Như Lai khen chọn thí,
Cho các Ðại đức này,
Cúng đây được phước nhiều,
Như ruộng tốt mọc lúa.

Khi ấy, con lại nghĩ thế này: 'Lời dạy của Như Lai không nên trái, ta há lại sanh tâm chọn lựa để bố thí ư?' Trọn không có tâm phải quấyý niệm cao thấp. Khi ấy con lại nghĩ rằng: 'Ta sẽ bố thí cho hết thảy tất cả chúng sanh. Nếu người trì giới thì được phước vô cùng, nếu người phạm giới thì tự chịu tai họa'. Chỉ thương chúng sanh nếu phạm giới thì tự chịu tai họa'. Chỉ thương chúng sanh nếu không được ăn, thì không được cứu giúp mạng sống.

Phật bảo trưởng giả:

- Lành thay! Lành thay! Thệ nguyện rộng lớn bồ tát khi bố thí thì tâm thường bình đẳng. Trưởng giả nên biết, vào ngày Bồ-tát bố thí, chư Thiên đến bảo rằng: 'Nhà hào quý nên biết, đây là người trì giới, đây là người phạm giới. Bố thí người này được phước nhiều, bố thí người này được phước ít'. Bấy giờ Bồ-tát trọn không sanh tâm này: 'Nên bố thí người này, không nên bố thí người này'. Tâm Bồ-tát thuần thục không có thị phi, cũng chẳng nói đây là trì giới, đây là phạm giới. Cho nên, Trưởng giả nên nghĩ bố thí bình đẳng, được phước vô lượng lâu dài.

Khi ấy, trưởng giả Sư-tử nhớ lời Như Lai dạy, thành kính nhìn Thế Tôn, ý không lay động liền tại chỗ ngồi được pháp nhãn tịnh. Trưởng giả Sư-Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, lui đi ra. Trưởng giả đi chưa bao lâu, Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Trưởng giả Su-tử này do nhờ bố thí bình đẳng, lại chiêm ngưỡng Như Lai từ đầu đến chân, liền tại chỗ ngồi được pháp nhãn tịnh.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Trong số đệ tử Ưu-bà-tắc của Ta, người bố thí bình đẳng nhất là trưởng giả Sư-tử.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất ở tại núi Kỳ-xá-quật, nơi chỗ vắng, vá y cũ. Khi ấy có mười ngàn chư Thiên cõi Phạm-ca-di từ nơi ấy ẩn, đến chỗ Xá-lợi-phất, cúi đầu lễ chân Tôn giả, đi quanh hầu Tôn giả, lại dùng kệ này khen ngợi:

Quy mạng bậc thượng nhơn,
Quy mạng bậc Tôn quý,
Nay chúng tôi chẳng biết
Y cứ những Thiền nào.

Khi ấy, mười ngàn chư Thiên cõi Phạm-ca-di nói kệ xong, Xá-lợi-phất im lặng chấp nhận. Chư thiên thấy Xá-lợi-phất im lặng chấp nhận rồi, liền làm lễ dưới chân rồi đi. Chư Thiên đi chưa xa, Xá-lợi-phất liền nhập Kim cang tam-muội.

Khi ấy, có hai con quỷ, một tên Già-la, một tên Ưu-ba-già-la, do Tỳ-sa-môn Thiên vương sai đi đến chỗ Thiên vương Tỳ-lưu-lặc (Thiên vương Tăng Trưởng), muốn bàn luận việc Trời, Người. Lúc đó, hai quỷ ấy bay qua hư không, xa thấy Xá-lợi-phất ngồi kiết-già, buộc niệm ở trước, tâm ý vắng lặng định tĩnh. Quỷ Già-la bảo quỷ kia rằng:

- Nay ta có thể dùng chưởng đánh ngay đầu Sa-môn kia.

Quỷ Ưu-ba-già-la nói:

- Ngươi chớ khởi ý niệm đánh vào đầu Sa-môn. Vì sao? Sa-môn ấy rất có thần đức, có oai lực lớn. Tôn danh vị ấy là Xá-lợi-phất, trong hàng đệ tử Thế Tôn không ai thông minh, tài cao hơn người này, là bậc trí tuệ đệ nhất trong hàng đệ tử Phật. Ngươi làm việc ấy chịu khổ vô lượng lâu dài.

Quỷ Già-la cứ hai ba lần bảo:

- Ta có thể đánh vào đầu Sa-môn ấy.

Quỷ Ưu-ba-già-la lại bảo:

- Nay Ngươi không nghe theo lời ta, Ngươi cứ ở đây, ta sẽ bỏ Ngươi đi.

Ác quỷ ấy hỏi:

- Ngươi sợ Sa-môn ấy sao?

Quỷ Ưu-ba-già-la bảo:

- Thật ta sợ. Nếu Ngươi lấy tay đánh vào đầu Sa-môn này, đất sẽ nứt đôi. Rồi sẽ có gió bão, mưa dữ, đất đai rúng động, chư Thiên kinh động. Ðất đã rúng động, Tứ Thiên vương cũng sẽ kinh sợ. Tứ Thiên vương đã biết, chúng ta không yên đâu.

Khi ấy, ác quỷ cứ nói:

- Nay ta có thể làm nhục Sa-môn này.

Thiện quỷ nghe rồi liền bỏ đi. Ác quỷ kia liền lấy tay đánh vào đầu Xá-lợi-phất. Ngay khi ấy, trời đất chấn động mạnh, bốn phía cuồng phong, mưa dữ tức thời thổi lên, đất liền nứt làm hai. Toàn thân ác quỷ đều rơi vào địa ngục.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất từ chánh định dậy, chỉnh đốn y phục, xuống núi Kỳ-xà-quật, đi đến vườn trúc, đến chỗ đức Thế Tô, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên.

Phật bảo Xá-lợi-phất:

- Nay thân thể Thầy, không bệnh tật chăng?

Xá-lợi-phất thưa:

- Thân con không bệnh, chỉ có đầu hơi đau.

Phật bảo:

Quỷ Già-la lấy tay đánh vào đầu thầy. Nếu quỷ ấy dùng tay đấm núi Tu-di, núi Tu-di liền bể đôi. Vì sao? Vì quỷ ấy có sức mạnh. Nay quỷ ấy chịu tội báo, toàn thân rơi vào địa ngục A-tỳ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Thật kỳ lạ! Thật đặc biệt! Sức của Kim cang tam-muội đến như thế! Do sức của tam-muội này mà không bị tổn hại. Giả sử núi Tu-di đánh vào đầu trọn không thể làm động đến mảy lông. Vì sao như thế? Tỳ-kheo nghe đây:

Trong Hiền kiếp này có đức Phật hiệu Câu-lưu-tôn, Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác. Ðức Phật ấy có hai đại Thanh văn, một tên Ðẳng Thọ, một tên Ðại Trí. Tỳ-kheo Ðẳng Thọ có sức thần túc bậc nhất, Tỳ-kheo Ðại Trí có trí tuệ bậc nhất. Như ngày nay, đệ tử Ta Xá-lợi-phất trí tuệ bậc nhất, Mục-kiền-liên thần túc bậc nhất.

Bấy giờ, hai Tỳ-kheo Ðẳng Thọ và Ðại Trí đều được Kim cang tam-muội. Vào một lúc nọ, Tỳ-kheo Ðẳng Thọ ở chỗ vắng nhập Kim cang tam-muội. Khi ấy có các người chăn bò, chăn dê, người đốn cúi, cắt cỏ, thấy Tỳ-kheo nầy tọa Thiền họ bảo nhau rằng:

- ' Hôm nay Sa-môn này đã chết'.

Các người chăn bò và đốn củi, bèn gom các cỏ khô, cây khô, chất lên mình thầy Tỳ-kheo, châm lửa đốt rồi bỏ đi. Khi Tỳ-kheo Ðẳng Thọ từ chánh định xuất, chỉnh đốn y phục, rời chỗ ngồi mà đi. Tỳ-kheo cũng vào ngày đó, đắp y mang bát vào làng khất thực. Các người đốn củi thấy thầy Tỳ-kheo khất thực trong làng, đều bảo nhau:

- 'Thầy Tỳ-kheo ngày hôm qua đã chết, chúng ta lấy lửa hỏa thiêu, ngày nay sống lại, nay nên đặt tên là Hoàn Hoạt (sống lại)'.

Nếu có Tỳ-kheo được Kim cang tam-muội, lửa không đốt được, dao không chặt được, vào nước không chìm, không bị người khác làm tổn thương. Như thế, này Tỳ-kheo! Kim cang tam-muội oai đức như thế. Nay Xá-lợi-phất được tam-muội này. Tỳ-kheo Xá-lợi-phất thường dạo chơi hai chỗ, Không tam-muội và Kim cang tam-muội.

Cho nên, Tỳ-kheo nên tìm phương tiện thực hành Kim cang tam-muội. Như thế, này các Tỳ-kheo nên học điều này!

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ta sẽ dạy các Thầy như Tỳ-kheo Xá-lợi-phất ấy có trí tuệ, có sức trí lớn, trí phân biệt rộng, trí vô biên, trí nhanh nhẹn, trí biết khắp, trí nhạy bén, trí thâm sâu, trí đoạn dứt; ít muốn biết đủ, vắng lặng dũng mãnh, ý niệm không tán loạn, thành tựu giới, thành tựu định, thành tựu tuệ, thành tựu giải thoátgiải thoát tri kiến; nhu hòa không tranh cãi, bỏ việc ác rốt ráo, nhẫn các lời nói, khen ngợi việc lìa ác, thường nhớ nghĩ xa lìa, thương xót các người ngu, làm Chánh pháp hưng thạnh, vì người nói pháp không biết chán.

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Mười nghìn chư Thiên nhơn,
Ðều là trời Tịnh Thân,
Tự quy Xá-lợi-phất,
Nơi đảnh núi Linh Thứu
Quy mạng bậc Thượng nhơn,
Quy mạng bậc Tôn quý,
Nay chúng tôi không biết,
Y cử những Thiền nào?
Như thế, Hoa đệ tử,
Trang nghiêm cội cây Phật,
Như vườn cây cõi trời,
Vui thích không thể sánh.

Ðệ tử Như Hoa tức là Tỳ-kheo Xá-lợi-phất. Vì sao? Người này ắt hay trang nghiêm cội cây Phật, cội đạo thọ tức là Như Lai vậy, Như Lai hay che trùm tất cả chúng sanh.

Cho nên, Tỳ-kheo nên nghĩ nhớ siêng năng, gắng dõng mãnh tinh tấn như Tỳ-kheo Xá-lợi-phất. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31380)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26259)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27569)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27956)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26747)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20313)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22996)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30113)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21641)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20314)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22707)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20812)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30374)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28836)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34782)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44264)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35566)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22591)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21410)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20720)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24800)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37980)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19099)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19373)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21864)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20905)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29557)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35209)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28862)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32637)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26272)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28977)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43198)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 35000)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 44014)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37945)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21362)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43072)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49052)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39897)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53834)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36857)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40859)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49779)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47367)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27794)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27058)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27258)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24102)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20886)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34350)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22522)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25164)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25900)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22996)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22515)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21784)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23359)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21211)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant