Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Tìm hiểu về Phẩm 3: Đầu-đà

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 7893)
Phần Tìm hiểu về Phẩm 3: Đầu-đà

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Phần 2: PHẦN TÌM HIỂU

Phần Tìm hiểu về Phẩm 3: Đầu-đà


Chuyển tiếp: Trong Phẩm 2: Phân biệt về Giới, bản Luận văn giải thích về Giới và cách giữ Giới sao cho thanh tịnh. Trong Phẩm 3: Đầu-đà, Luận văn chỉ rõ một hạnh nguyện khắc khổ của bực tu hành xuất gia nhờ đó mà việc thọ trì Giới sớm được thành tựu.

016. Ý chánh của Phẩm 3: Đầu-đà.

Phẩm 3: Đầu-đà tiếp theo Phẩm 2 nói về Giới, chính là để nêu ra một đường lối tu tập nghiêm khắc, cốt để giữ giới cho thật thanh tịnh, đồng thời có nhiều triển vọng để đắc được Định khi ngồi thiền, và nhờ đó mà phát triển được Trí huệ, soi sáng các bước đi theo con đường giải thoát.

Ý chánh trong Luận văn bắt đầu cho biết các công đức của hạnh Đầu-đà trước, kế tìm hiểu nội dung của mười ba hạnh Đầu-đà, cách thọ trì cùng sự châm chước, ai có thể tu hạnh nầy được và đạt được hiệu quả diệt tham dục, phá si mê và sau cùng nói đến hình tướng, sự khởi phát và công dụng.

Nói lại cách khác cho gọn hơn về ý chánh đó, Phẩm 3: Đầu-đà dạy mười ba hạnh tu khắc khổ, trước để giữ giới cho thật thanh tịnh, sau diệt được sự tham dục và làm mỏng bớt sự si mê, để mạnh tiến theo con đường giải thoát.

017. Dàn bài của Phẩm 3: Đầu-đà.

I. Nhập đề: Các ích lợi do sự tu tập theo hạnh đầu-đà mang lại: khéo giữ Giới, sớm đắc Định, phát triển Huệ.

II. Thân bài:

1) Mười ba hạnh Đầu-đà gồm có những gì?

11. Hai pháp về y phục:

111. Phấn tảo ytam y
112. Cách thọ trì ích lợi

12. Năm pháp về ăn uống:

121. Khất thực hằng ngày;
122. Khất thực theo thứ lớp;
123. Chỉ một lần ngồi
ăn;
124. Khéo đo lường bữa ăn;
125. Quá giờ chẳng ăn .

13. Năm pháp về ngồi và về chỗ ở:

131. Ngồi nơi nhàn tịnh;
132. Ngồi dưới bóng cây;
133. Ở chỗ trống chẳng che lợp
134. Ở nơi mồ mả;
135. Ở tùy chỗ gặp
được.

14. Một hạnh về tinh tấn: luôn ngồi chẳng nằm

2) Các châm chước trong sự thọ trì.

3) 13 hạnh Đầu-đà qui về tám phápba pháp.

4) Ba hạng người tu theo hạnh Đầu-đà.

5) Thuyết giảng về hạnh Đầu-đà.

III. Phần chót: Tướng, vị, khởi và các giai đoạn của hạnh Đầu-đà.

018. Giải nghiã chữ khó trong Phẩm 3: Đầu-đà.

Đầu-đà: phiên âm từ chữ Pàli Dhuta, còn tiếng Phạn là Dhudanga, có nghiã là hạnh tu khắc khổ, để thực hiện sự dứt bỏ các tham dục (= ham muốn được vui, đủ tiện nghi).

Hạnh: đây có nghiã là hạnh nguyện, tức là đường lối tu hành được người tu sĩ phát lời nguyện tuân theo suốt đời. Như đã biết, Giới khác với Hạnh, ở chỗ là giới điều luật Đức Phật đặt ra trong Luật tạng mà người liên hệ phải tuân hành, nếu không thì vi phạm kỷ luật, bị trừng phạt. Còn Hạnh thì do theo lời phát nguyện cá nhơn, chẳng có tánh cách bó buộc từ bên ngoài; vì muốn theo một đường tu được ấn định sẵn, nên tự nguyện tuân hành và khép mình vào khuôn khổ.

Khắc khổ: chịu đựng sự kham khổ, thiếu tiện nghi, với mục đích kềm chế thân để giữ vững tâm.

Tham ái: Tham = ham nhiều; ái = thương, thích. Ráp hai chữ lại, tham ái có nghiã chẳng được tốt, chỉ sự ham muốn quá mức. Đồng nghiã với chữ khát ái, thèm khát quá mức.

Trang bị: Trang = sửa soạn hành lý, tô điểm; Bị = đầy đủ. Trang bị là tìm cho đầy đủ, sẵn sàng các sự vật cần thiết.

Nhàn tịnh: Nhàn = an nhàn, chẳng bận bịu công việc, vắng vẻ; Tịnh = yên tịnh. Nói Nơi nhàn tịnh là muốn nói đến nơi ít người qua lại, chẳng ồn ào, khiến người tu hành được yên ổn, chẳng bận rộn. (Nguyên văn trong Luận văn là vô sự xứ).

Tinh tấn đõng mãnh: Tinh tấn = cố gắng, nỗ lực; dõng mãnh = mạnh mẽ, hùng mạnh. Ý nói sự cố gắng lên cao.

Nạp y: Nạp = thầy tu, tiếng khiêm nhường của người tu hành tự xưng. Y = áo, quần áo, y phục. Nạp y = áo thầy tu.

Chánh thọ: Chánh = chơn chánh; thọ = thọ nhận. Nhưng chữ chánh thọ theo nghiã chuyên môn thiền học, là tình trạng tâm vào định (khi các ý tưởng dừng lại, gom vào đề mục quán tưởng). Lại nữa, chữ chánh thọ còn dành để chỉ đến tình trạng định cao cấp ở bực Diệt thọ tưởng định (Các Phẩm sau về Thiền sẽ nói rõ).

Mỹ vị: Mỹ = đẹp khéo, ngon; Vị = hương vị của thức ăn. Mỹ vị là thức ăn ngon, qúi.

Chiêm ngưỡng: Chiêm = trông vào; Ngưỡng = ngẩng lên trông. Chiêm ngưỡng ngắm nhìnthán phục.

Của bố thí chẳng được trong sạch: dịch chữ Bất tịnh thí: vì vật dưng hiến do hành động bất chánh mà có, hoặc do kẻ bất lương đem cúng.

Trù lượng: Trù = trù tính, tính trước; Lượng = số lượng ít nhều vừa đủ mà thôi.Trù lượng là tính trước cho vừa đủ.

Vô độ: Vô = chẳng; Độ = mức độ, chừng độ; Vô độ quá mức, thái quá, thiếu sự tiết chế.

Vọng tưởng: Vọng = hư ảo, sai sự thật; Tưởng = ý tưởng. Vọng tưởng ý tưởng vọng cầu, chẳng đúng với sự thật. Khi ngồi thiền, có những ý tưởng bông lông, đó cũng gọi là vọng tưởng.

Huyên náo = nơi có tiếng ầm ĩ, ồn ào.

Thập chủng ngữ: mười loại lời nói. Thú thật, ngoài lời nói dịu dàng, đúng theo Chánh pháp ra, tôi chẳng biết đầy đủ mười loại ngôn ngữ đã khiến cho Trời Người đều khen ngợi.

Niệm về sự chết = chữ Hán Việt là tử niệm, tức là sự suy nghĩ về cái chết, luôn tưởng đến cái chết rồi sẽ đến với mình mà chăm chỉ tu hành tinh tấn hơn lên.

Từ bi: Từ = ban vui; Bi = cứu khổ.

Châm chước: gia giảm, thêm bớt thế nào cho nhẹ đi, bớt khắt khe chút ít, để dễ bề tuân theo mà khỏi vi phạm. (Bản dịch Hán văn đã dùng chữ Phương tiện).

Lễ dâng y: thường vào mùa Vu Lan (rằm tháng Bảy âm lịch), có tổ chức lễ Dâng Y (Pàli gọi là lễ Kathina) để thiện nam, tín nữ dâng hiến áo cà-sa lên Tăng ni.

Lễ Bố tát: tiếng Pàli là Uposatha, là lễ tổ chức mỗi đầu tháng và giữa tháng, để đọc tụng lại Giới bổn. Đây là dịp để tu sĩ nào lỡ phạm giới thì xin sám hối.

A-xà-lê: tiếng Pàli: Àcariya, là vị thầy dạy giáo lý cho các tu sĩ, còn gọi là vị Giáo thọ.

Hứa khả: hứa nhận, cho phép, chấp thuận.

An cư: ở yên. Tại đây, chữ muà An cư là mùa mưa, côn trùng sanh sản nhiều, nên chư Tăng chẳng đi khất thực sợ lỡ đạp chết chúng. Trong mùa An cư, chư Tăng ở lại chùa để lo tu học thêm.

019. Suy gẫm về Hạnh Đầu-đà.

1) Hạnh Đầu-đà và Khổ hạnh khác nhau.

Hạnh Đầu-đà và lối tu Khổ hạnh có chỗ giống nhau vì cả hai đều áp dụng kỷ luật nghiêm khắc, nhưng lại khác nhau vì một đằng, hạnh Đầu-đà do Đức Phật đặt ra để cho các tu sĩ theo đó mà giữ giới được thanh tịnh; còn đằng kia là Khổ hạnh do các phái ngoại đạo đề xướng với mục đích ép xác, lầm tưởng rằng càng hành hạ thân thể càng nhiều bao nhiêu thì phần tâm linh càng được sớm giải thoát bấy nhiêu.

Theo truyền thuyết, khi Thái tử Tất-đạt-ta (Pàli Siddhatta) còn chưa đắc đạo, Ngài tu theo Khổ hạnh, mỗi ngày chỉ ăn một ít hột mè để nuôi thân, nên cơ thể tiều tụy, cho đến khi bị ngất xỉu, nhờ có nàng thôn nữ Sujàta dâng bát sữa, Ngài mới tỉnh lạinhận ra khổ hạnh chẳng đưa đến giác ngộgiải thoát. Thấy Ngài cầm bình bát đi khất thực trở lại, và ăn uống đầy đủ, năm người bạn đồng tu là nhóm anh em ông Kiều trần như mới chê và bỏ đi. Đến khi thành đạo, Đức Phật tìm đến vườn Lộc uyển, để giảng Kinh Chuyển Pháp Luân cho năm người bạn đạo cũ nghe, mà đoạn mở đầu của Kinh vạch rõ hai con đường cực đoan (= chỗ quá mức) nên tránh: một bên là lợi dưỡng, "đắm say các dục hạ liệt, đê tiện, phàm phu... chẳng liên hệ đến mục đích", một bên là khổ hạnh,"tự hành khổ mình, khổ đau, chẳng xứng bực Thánh, chẳng liên hệ đến mục đích".

Khổ hạnh của ngoại đạo mê tín, vào thời Đức Phật, thường là tu ngồi xổm cả ngày đêm, tu loã thể chẳng mặc quần áo, trôi trét tro bùn vào thân, để móng tay dài chẳng dám cắt ngắn, nằm ngồi trên bàn chông nhọn, v.v.

Tôn giả Đại Ca-diếp (Maha Kassapa) người đệ tử được Đức Phật khen là bực nhứt về hạnh Đầu-đà. Tôn giả là vị thừa kế Đức Phật để cầm đầu Tăng đoàn, sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn và là Sơ tổ của Thiền tông Ấn độ.

Vậy, đừng tưởng lầm hạnh Đầu-đà chỉ là khổ hạnh dành cho bực xuất gia.

2) Hạnh Đầu-đà tuy dành riêng cho bực xuất gia, nhưng tinh thần của hạnh Đầu-đà lại có thể ứng dụng cho các cư sĩ tu tại gia.

Mười ba hạnh Đầu-đà qui định rõ lối sống của người tu sĩ khép mình trong kỷ luật nghiêm khắc. Như đã đọc qua, có hai pháp về quần áo, năm pháp về ăn uống, năm pháp về nơi cư trú và một pháp về tinh tấn: chẳng nằm. Mục đích là khép mình vào giới luật một cách chặt chẽ, để giữ Giới cho thật thanh tịnh. Tại sao? Vì nhờ có Giới thanh tịnh, thân tâm an lạc, dễ vào Định khi ngồi Thiền, rồi phát triển Trí Huệ, soi rõ thêm con đường giác ngộ, giải thoát đang lần bước noi theo.

Ứng dụng cho người Phật tử tại gia, tinh thần của hạnh Đầu-đà chú trọng đến:

21. về hạnh phấn tảo ytam y: diệt trừ sự tích trữ y phục, dẹp bỏ sự ham chuộng trang sức cho đẹp bề ngoài;

22. về các hạnh khất thực, chỉ ngồi ăn một lần, quá giờ chẳng ăn: diệt trừ mối tham ái về ăn uống, bỏ lối chạy đôn đáo đi tìm thức ăn ngon, ăn uốngtiết độ, đúng giờ, chẳng ăn quà vặt;

23. về các hạnh liên quan đến nơi cư trú: dẹp bỏ sự quyến luyến vào nhà cửa, trừ bỏ sự đòi hỏi cho đầy đủ mọi tiện nghi, tập tánh ít muốn và biết đủ;

24. về hạnh luôn ngồi chẳng nằm: dứt bỏ được sự lười biếng.

Theo đúng tinh thần đó, thì giới hạnh giữ được trọn vẹn, tập được thiểu dục tri túc, dứt được khát ái, bỏ tham luyến, tinh tấn dõng mãnh, lià xa sự giải đãi, phóng dật. Đó là các điều căn bản về thân cần hội đủ, để tâm an lạc mà vào Định khi ngồi Thiền. Như thế, các hạnh Đầu-đà giúp cho hành giả rất nhiều trong việc tu Định và Huệ.

3) Thắc mắc thứ nhứt: Hạnh khất thực hằng ngày của tu sĩ phải chăng một hình thức sống nhờ vả vào kẻ khác, chẳng tự mình làm việc để mưu sanh lấy? Đáp: Xin đừng có hiểu lầmđây là một hạnh cao qúi, đã được Đức Phật nhắc đến trong kinh Pháp Cú, trích dẫn như sau:

... "Thuở ấy, trong một dịp trở về viếng thăm lại thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu), Đức Phật ngụ tại chùa Cây Sung; nơi đây Ngài đem Chánh pháp ra giảng dạy cho thân nhơn trong dòng họ Thích-ca. Đức Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) nghĩ rằng thế nào Đức Phật cũng đến hoàng cung, nên chẳng thỉnh Đức Phật, mà lại lo chuẩn bị thức ăn cho hơn cả ngàn Tỳ-kheo, để chờ Đức Phật đến.

Sáng sớm hôm ấy, công chúa Gia-du-đà-la (Yasodhàra, vợ của Thái tử Tất-đạt-ta), nhìn qua khung cửa sổ, thấy Đức Phật đang mang bình bát đi khất thực từng nhà. Công chúa vội đi báo với Vua Tịnh Phạn. Vua Cha tức tốc chạy đến bên Đức Phật, bảo rằng, thật là nhục nhã cho một người dòng Sát-đế-lợi (Khattiya, giai cấp vua chúa) mà phải đi ăn xin từng nhà. Đức Phật đáp lại rằng, khất thực là một hạnh cao qúi, được tất cả chư Phật trong ba đời thi hành, nên nay Ngài tuân theo hạnh đó, là giữ đúng truyền thống, có chi đâu là nhục nhã.

Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây:

Hãy hăng hái và đừng phóng dật,
Mà lãng xao hạnh khất sĩ nầy.
Trang nghiêm chánh hạnh hành trì,
Thế gian hưởng lạc đời nầy, đời sau.
(Kệ số 168)

Đừng theo tà hạnhphóng dật,
Hãy nghiêm trì hạnh khất sĩ nầy.
Trang nghiêm chánh hạnh hành trì,
Thế gian hưởng lạc đời nầy, đời sau..."
(Kệ số 169).

Như thế, vì muốn Tỳ-kheo phải chịu nhẫn nhục bưng bình bát đến xin từng nhà, gieo duyên lành với dân chúng, mà hạnh khất sĩ được đặt ra, trước giúp Tỳ-kheo dứt được sự tham luyến về vật thực, sau để cho dân chúng có dịp tạo phước đức bằng cách cúng thí cho tu sĩ.

Ngày nay, chỉ có các nước theo Phật giáo Nam tông còn giữ được hạnh khất sĩ. Mỗi sáng, đứng nhìn hàng tu sĩ uy nghi trong bộ cà-sa màu vàng, bưng bình bát, chờ được bố thí, chẳng khỏi khởi lòng xúc động trước cảnh trang nghiêm đó!

4) Thắc mắc thứ hai: Hạnh Đầu-đà thứ 10: ở chỗ trống chẳng có che lợp hạnh thứ 11: ở nơi mồ mả, ngày nay chẳng thể nào thực hành đúng được, vì lẽ thời tiết và qui luật. Vì thời tiết ướt át mưa dầm, chẳng thể ở mãi chỗ chẳng có che lợp; vì qui luật thành phố, chẳng thể đi vào nghiã địa đã đóng cổng từ lúc mặt trời lặn.

Đáp: Đúng vậy! Nếu chẳng thực hành được đúng theo như thời xưaẤn độ, nhưng ngày nay, vẫn có thể thi hành hai hạnh đó, theo đúng tinh thần Đầu-đà:

- hạnh thứ 10 cốt ở chỗ diệt lòng quyến luyến về chỗ cư trú, tánh ham trang hoàng nhà cửa cho thật sang, thật đẹp, để hãnh diện với xóm riềng. Ngày nay, những người có trách nhiệm về tài chánh trong một tự viện, nên nghĩ đến việc mở mang phòng ốc thêm cho tăng ni trú ngụ, mở phòng đọc sách cho thanh niên Phật tử, trang bị tủ sách Phật học cho các đạo hữu, hơn là lo xây cổng chùa bên ngoài cho đẹp, hoặc thiết lập thật nhiều tượng Phật trong vườn chùa.

- hạnh thứ 11 ở nơi mồ mả, nên để hạnh thứ 8 ngồi nơi nhàn tịnh thay thế. Chẳng có phương tiện chuyên chở để đến những nơi yên vắng trong rừng, trên núi, hoặc ngoài bãi biển, nhưng người Phật tử, ngay trong căn nhà chật hẹp của mình, cũng có thể có một chỗ ngồi nhàn tịnh, để tỉnh tâm, để ngồi thiền. Chẳng cần phải trang hoàng khung cảnh chung quanh chỗ ngồi, chỉ cần trang trí ngay bên trong tâm bằng cách dứt mọi lo toan hằng ngày trong mười phút, nửa giờ ngồi xếp bằng trầm tư cũng đủ lấy lại bình thản cho tâm hồn, trong khi mọi người khác đang an giấc.

5) Vài đề nghị với người tu tại nhà, liên quan đến việc ứng dụng tinh thần hạnh Đầu-đà:

51. Vấn đề mặc:

511. Chỉ cần giữ lại chừng năm, sáu bộ quần áo, các y phục cũ, xin gọi điện thoại đến các Cơ quan từ thiện để gởi tặng cho các người đang cần đến;

512. Muà đông, chẳng cần mặc áo lông chồn, mang giầy hải cẩu, áo vải nylon dồn bông cũng đủ ấm.

513. Dưới gầm giường chẳng phải là kho để chứa giầy dép; xin đừng bắt chước vị đệ nhứt phu nhơn kia có tới gần hai ngàn đôi giầy cao gót!

52. Vấn đề ăn:

521. Nên tự đặt nguyên tắc cho chính mình: ăn đến chén thứ ba, đừng ăn gì thêm nữa. Tránh được phì nộn.

522. Ngoài bữa ăn chánh ra, chẳng ăn quà vặt, nhứt là "chip", đừng nhai kẹo cao su (hãy tỏ lòng xót thương đến hàm răng)

524. Ăn chay phải đúng ngày, chẳng có việc châm chước ăn bù vào ngày khác (sai mất kỷ luật tuân giới sát sanh). Đừng bao giờ nghĩ trong bụng, tối rồi, Phật ngủ, ăn một chút có làm sao! Giữ Giới là giữ cho mình, giữ cho thanh tịnh, chớ nào phải sợ Phật quở phạt chi đâu!

525. Vừa uống nước xong, thấy có bánh ngọt mang lên, đừng ăn thêm mặc dầu được mời mọc.

53. Vấn đề ở:

531. Đi cắm trại, chớ mang nệm theo, túi ngủ là đủ, thử tập sống thiếu tiện nghi vài hôm, coi đã ra sao?

532. Chẳng ngủ trưa, nằm nghỉ mươi phút, thở dài hơi trong chánh niệm.Tu sĩ theo hạnh Đầu-đà đâu có nằm!

533. Từ nhà đến trạm xe buýt, xe điện hầm cách xa chừng năm trăm thước, mùa đông cứ đi bộ, đừng đi xe; vừa đi vừa tưởng như đang đi thiền hành trên núi tuyết. Các tu sĩ ngày xưa theo hạnh Đầu-đà còn đi xa hơn, để khất thực.

6) Xin ghi nhớ:

Hạnh Đầu-đà tuy được Đức Phật đặt ra để cho các Tỳ-kheo ngày xưa tu tập, hầu giữ vẹn giới hạnh, nhưng vào thời buổi nầy, các Phật tử vẫn còn có thể ứng dụng đúng theo tinh thần hạnh Đầu-đà trong nếp sống hằng ngày.

- Tinh thần Hạnh Đầu-đà: Thiểu dục, Tri túc (Ít muốn, biết đủ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12561)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14122)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10872)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10554)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11227)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12030)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13180)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13674)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33704)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11365)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12971)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13089)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11657)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17927)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11465)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11886)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11527)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19001)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12577)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11366)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13168)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15807)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11860)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11717)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12804)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12655)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13990)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13014)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12979)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13321)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12797)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12735)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11787)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11759)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12376)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12418)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19860)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11987)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12016)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16914)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12705)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15090)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16145)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12914)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12266)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11948)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11948)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13192)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16546)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13254)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12529)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11858)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19894)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11188)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11292)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10437)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11119)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10991)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10057)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11772)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant