Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Tìm hiểu về Phẩm 3: Đầu-đà

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 7898)
Phần Tìm hiểu về Phẩm 3: Đầu-đà

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Phần 2: PHẦN TÌM HIỂU

Phần Tìm hiểu về Phẩm 3: Đầu-đà


Chuyển tiếp: Trong Phẩm 2: Phân biệt về Giới, bản Luận văn giải thích về Giới và cách giữ Giới sao cho thanh tịnh. Trong Phẩm 3: Đầu-đà, Luận văn chỉ rõ một hạnh nguyện khắc khổ của bực tu hành xuất gia nhờ đó mà việc thọ trì Giới sớm được thành tựu.

016. Ý chánh của Phẩm 3: Đầu-đà.

Phẩm 3: Đầu-đà tiếp theo Phẩm 2 nói về Giới, chính là để nêu ra một đường lối tu tập nghiêm khắc, cốt để giữ giới cho thật thanh tịnh, đồng thời có nhiều triển vọng để đắc được Định khi ngồi thiền, và nhờ đó mà phát triển được Trí huệ, soi sáng các bước đi theo con đường giải thoát.

Ý chánh trong Luận văn bắt đầu cho biết các công đức của hạnh Đầu-đà trước, kế tìm hiểu nội dung của mười ba hạnh Đầu-đà, cách thọ trì cùng sự châm chước, ai có thể tu hạnh nầy được và đạt được hiệu quả diệt tham dục, phá si mê và sau cùng nói đến hình tướng, sự khởi phát và công dụng.

Nói lại cách khác cho gọn hơn về ý chánh đó, Phẩm 3: Đầu-đà dạy mười ba hạnh tu khắc khổ, trước để giữ giới cho thật thanh tịnh, sau diệt được sự tham dục và làm mỏng bớt sự si mê, để mạnh tiến theo con đường giải thoát.

017. Dàn bài của Phẩm 3: Đầu-đà.

I. Nhập đề: Các ích lợi do sự tu tập theo hạnh đầu-đà mang lại: khéo giữ Giới, sớm đắc Định, phát triển Huệ.

II. Thân bài:

1) Mười ba hạnh Đầu-đà gồm có những gì?

11. Hai pháp về y phục:

111. Phấn tảo ytam y
112. Cách thọ trì ích lợi

12. Năm pháp về ăn uống:

121. Khất thực hằng ngày;
122. Khất thực theo thứ lớp;
123. Chỉ một lần ngồi
ăn;
124. Khéo đo lường bữa ăn;
125. Quá giờ chẳng ăn .

13. Năm pháp về ngồi và về chỗ ở:

131. Ngồi nơi nhàn tịnh;
132. Ngồi dưới bóng cây;
133. Ở chỗ trống chẳng che lợp
134. Ở nơi mồ mả;
135. Ở tùy chỗ gặp
được.

14. Một hạnh về tinh tấn: luôn ngồi chẳng nằm

2) Các châm chước trong sự thọ trì.

3) 13 hạnh Đầu-đà qui về tám phápba pháp.

4) Ba hạng người tu theo hạnh Đầu-đà.

5) Thuyết giảng về hạnh Đầu-đà.

III. Phần chót: Tướng, vị, khởi và các giai đoạn của hạnh Đầu-đà.

018. Giải nghiã chữ khó trong Phẩm 3: Đầu-đà.

Đầu-đà: phiên âm từ chữ Pàli Dhuta, còn tiếng Phạn là Dhudanga, có nghiã là hạnh tu khắc khổ, để thực hiện sự dứt bỏ các tham dục (= ham muốn được vui, đủ tiện nghi).

Hạnh: đây có nghiã là hạnh nguyện, tức là đường lối tu hành được người tu sĩ phát lời nguyện tuân theo suốt đời. Như đã biết, Giới khác với Hạnh, ở chỗ là giới điều luật Đức Phật đặt ra trong Luật tạng mà người liên hệ phải tuân hành, nếu không thì vi phạm kỷ luật, bị trừng phạt. Còn Hạnh thì do theo lời phát nguyện cá nhơn, chẳng có tánh cách bó buộc từ bên ngoài; vì muốn theo một đường tu được ấn định sẵn, nên tự nguyện tuân hành và khép mình vào khuôn khổ.

Khắc khổ: chịu đựng sự kham khổ, thiếu tiện nghi, với mục đích kềm chế thân để giữ vững tâm.

Tham ái: Tham = ham nhiều; ái = thương, thích. Ráp hai chữ lại, tham ái có nghiã chẳng được tốt, chỉ sự ham muốn quá mức. Đồng nghiã với chữ khát ái, thèm khát quá mức.

Trang bị: Trang = sửa soạn hành lý, tô điểm; Bị = đầy đủ. Trang bị là tìm cho đầy đủ, sẵn sàng các sự vật cần thiết.

Nhàn tịnh: Nhàn = an nhàn, chẳng bận bịu công việc, vắng vẻ; Tịnh = yên tịnh. Nói Nơi nhàn tịnh là muốn nói đến nơi ít người qua lại, chẳng ồn ào, khiến người tu hành được yên ổn, chẳng bận rộn. (Nguyên văn trong Luận văn là vô sự xứ).

Tinh tấn đõng mãnh: Tinh tấn = cố gắng, nỗ lực; dõng mãnh = mạnh mẽ, hùng mạnh. Ý nói sự cố gắng lên cao.

Nạp y: Nạp = thầy tu, tiếng khiêm nhường của người tu hành tự xưng. Y = áo, quần áo, y phục. Nạp y = áo thầy tu.

Chánh thọ: Chánh = chơn chánh; thọ = thọ nhận. Nhưng chữ chánh thọ theo nghiã chuyên môn thiền học, là tình trạng tâm vào định (khi các ý tưởng dừng lại, gom vào đề mục quán tưởng). Lại nữa, chữ chánh thọ còn dành để chỉ đến tình trạng định cao cấp ở bực Diệt thọ tưởng định (Các Phẩm sau về Thiền sẽ nói rõ).

Mỹ vị: Mỹ = đẹp khéo, ngon; Vị = hương vị của thức ăn. Mỹ vị là thức ăn ngon, qúi.

Chiêm ngưỡng: Chiêm = trông vào; Ngưỡng = ngẩng lên trông. Chiêm ngưỡng ngắm nhìnthán phục.

Của bố thí chẳng được trong sạch: dịch chữ Bất tịnh thí: vì vật dưng hiến do hành động bất chánh mà có, hoặc do kẻ bất lương đem cúng.

Trù lượng: Trù = trù tính, tính trước; Lượng = số lượng ít nhều vừa đủ mà thôi.Trù lượng là tính trước cho vừa đủ.

Vô độ: Vô = chẳng; Độ = mức độ, chừng độ; Vô độ quá mức, thái quá, thiếu sự tiết chế.

Vọng tưởng: Vọng = hư ảo, sai sự thật; Tưởng = ý tưởng. Vọng tưởng ý tưởng vọng cầu, chẳng đúng với sự thật. Khi ngồi thiền, có những ý tưởng bông lông, đó cũng gọi là vọng tưởng.

Huyên náo = nơi có tiếng ầm ĩ, ồn ào.

Thập chủng ngữ: mười loại lời nói. Thú thật, ngoài lời nói dịu dàng, đúng theo Chánh pháp ra, tôi chẳng biết đầy đủ mười loại ngôn ngữ đã khiến cho Trời Người đều khen ngợi.

Niệm về sự chết = chữ Hán Việt là tử niệm, tức là sự suy nghĩ về cái chết, luôn tưởng đến cái chết rồi sẽ đến với mình mà chăm chỉ tu hành tinh tấn hơn lên.

Từ bi: Từ = ban vui; Bi = cứu khổ.

Châm chước: gia giảm, thêm bớt thế nào cho nhẹ đi, bớt khắt khe chút ít, để dễ bề tuân theo mà khỏi vi phạm. (Bản dịch Hán văn đã dùng chữ Phương tiện).

Lễ dâng y: thường vào mùa Vu Lan (rằm tháng Bảy âm lịch), có tổ chức lễ Dâng Y (Pàli gọi là lễ Kathina) để thiện nam, tín nữ dâng hiến áo cà-sa lên Tăng ni.

Lễ Bố tát: tiếng Pàli là Uposatha, là lễ tổ chức mỗi đầu tháng và giữa tháng, để đọc tụng lại Giới bổn. Đây là dịp để tu sĩ nào lỡ phạm giới thì xin sám hối.

A-xà-lê: tiếng Pàli: Àcariya, là vị thầy dạy giáo lý cho các tu sĩ, còn gọi là vị Giáo thọ.

Hứa khả: hứa nhận, cho phép, chấp thuận.

An cư: ở yên. Tại đây, chữ muà An cư là mùa mưa, côn trùng sanh sản nhiều, nên chư Tăng chẳng đi khất thực sợ lỡ đạp chết chúng. Trong mùa An cư, chư Tăng ở lại chùa để lo tu học thêm.

019. Suy gẫm về Hạnh Đầu-đà.

1) Hạnh Đầu-đà và Khổ hạnh khác nhau.

Hạnh Đầu-đà và lối tu Khổ hạnh có chỗ giống nhau vì cả hai đều áp dụng kỷ luật nghiêm khắc, nhưng lại khác nhau vì một đằng, hạnh Đầu-đà do Đức Phật đặt ra để cho các tu sĩ theo đó mà giữ giới được thanh tịnh; còn đằng kia là Khổ hạnh do các phái ngoại đạo đề xướng với mục đích ép xác, lầm tưởng rằng càng hành hạ thân thể càng nhiều bao nhiêu thì phần tâm linh càng được sớm giải thoát bấy nhiêu.

Theo truyền thuyết, khi Thái tử Tất-đạt-ta (Pàli Siddhatta) còn chưa đắc đạo, Ngài tu theo Khổ hạnh, mỗi ngày chỉ ăn một ít hột mè để nuôi thân, nên cơ thể tiều tụy, cho đến khi bị ngất xỉu, nhờ có nàng thôn nữ Sujàta dâng bát sữa, Ngài mới tỉnh lạinhận ra khổ hạnh chẳng đưa đến giác ngộgiải thoát. Thấy Ngài cầm bình bát đi khất thực trở lại, và ăn uống đầy đủ, năm người bạn đồng tu là nhóm anh em ông Kiều trần như mới chê và bỏ đi. Đến khi thành đạo, Đức Phật tìm đến vườn Lộc uyển, để giảng Kinh Chuyển Pháp Luân cho năm người bạn đạo cũ nghe, mà đoạn mở đầu của Kinh vạch rõ hai con đường cực đoan (= chỗ quá mức) nên tránh: một bên là lợi dưỡng, "đắm say các dục hạ liệt, đê tiện, phàm phu... chẳng liên hệ đến mục đích", một bên là khổ hạnh,"tự hành khổ mình, khổ đau, chẳng xứng bực Thánh, chẳng liên hệ đến mục đích".

Khổ hạnh của ngoại đạo mê tín, vào thời Đức Phật, thường là tu ngồi xổm cả ngày đêm, tu loã thể chẳng mặc quần áo, trôi trét tro bùn vào thân, để móng tay dài chẳng dám cắt ngắn, nằm ngồi trên bàn chông nhọn, v.v.

Tôn giả Đại Ca-diếp (Maha Kassapa) người đệ tử được Đức Phật khen là bực nhứt về hạnh Đầu-đà. Tôn giả là vị thừa kế Đức Phật để cầm đầu Tăng đoàn, sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn và là Sơ tổ của Thiền tông Ấn độ.

Vậy, đừng tưởng lầm hạnh Đầu-đà chỉ là khổ hạnh dành cho bực xuất gia.

2) Hạnh Đầu-đà tuy dành riêng cho bực xuất gia, nhưng tinh thần của hạnh Đầu-đà lại có thể ứng dụng cho các cư sĩ tu tại gia.

Mười ba hạnh Đầu-đà qui định rõ lối sống của người tu sĩ khép mình trong kỷ luật nghiêm khắc. Như đã đọc qua, có hai pháp về quần áo, năm pháp về ăn uống, năm pháp về nơi cư trú và một pháp về tinh tấn: chẳng nằm. Mục đích là khép mình vào giới luật một cách chặt chẽ, để giữ Giới cho thật thanh tịnh. Tại sao? Vì nhờ có Giới thanh tịnh, thân tâm an lạc, dễ vào Định khi ngồi Thiền, rồi phát triển Trí Huệ, soi rõ thêm con đường giác ngộ, giải thoát đang lần bước noi theo.

Ứng dụng cho người Phật tử tại gia, tinh thần của hạnh Đầu-đà chú trọng đến:

21. về hạnh phấn tảo ytam y: diệt trừ sự tích trữ y phục, dẹp bỏ sự ham chuộng trang sức cho đẹp bề ngoài;

22. về các hạnh khất thực, chỉ ngồi ăn một lần, quá giờ chẳng ăn: diệt trừ mối tham ái về ăn uống, bỏ lối chạy đôn đáo đi tìm thức ăn ngon, ăn uốngtiết độ, đúng giờ, chẳng ăn quà vặt;

23. về các hạnh liên quan đến nơi cư trú: dẹp bỏ sự quyến luyến vào nhà cửa, trừ bỏ sự đòi hỏi cho đầy đủ mọi tiện nghi, tập tánh ít muốn và biết đủ;

24. về hạnh luôn ngồi chẳng nằm: dứt bỏ được sự lười biếng.

Theo đúng tinh thần đó, thì giới hạnh giữ được trọn vẹn, tập được thiểu dục tri túc, dứt được khát ái, bỏ tham luyến, tinh tấn dõng mãnh, lià xa sự giải đãi, phóng dật. Đó là các điều căn bản về thân cần hội đủ, để tâm an lạc mà vào Định khi ngồi Thiền. Như thế, các hạnh Đầu-đà giúp cho hành giả rất nhiều trong việc tu Định và Huệ.

3) Thắc mắc thứ nhứt: Hạnh khất thực hằng ngày của tu sĩ phải chăng một hình thức sống nhờ vả vào kẻ khác, chẳng tự mình làm việc để mưu sanh lấy? Đáp: Xin đừng có hiểu lầmđây là một hạnh cao qúi, đã được Đức Phật nhắc đến trong kinh Pháp Cú, trích dẫn như sau:

... "Thuở ấy, trong một dịp trở về viếng thăm lại thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu), Đức Phật ngụ tại chùa Cây Sung; nơi đây Ngài đem Chánh pháp ra giảng dạy cho thân nhơn trong dòng họ Thích-ca. Đức Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) nghĩ rằng thế nào Đức Phật cũng đến hoàng cung, nên chẳng thỉnh Đức Phật, mà lại lo chuẩn bị thức ăn cho hơn cả ngàn Tỳ-kheo, để chờ Đức Phật đến.

Sáng sớm hôm ấy, công chúa Gia-du-đà-la (Yasodhàra, vợ của Thái tử Tất-đạt-ta), nhìn qua khung cửa sổ, thấy Đức Phật đang mang bình bát đi khất thực từng nhà. Công chúa vội đi báo với Vua Tịnh Phạn. Vua Cha tức tốc chạy đến bên Đức Phật, bảo rằng, thật là nhục nhã cho một người dòng Sát-đế-lợi (Khattiya, giai cấp vua chúa) mà phải đi ăn xin từng nhà. Đức Phật đáp lại rằng, khất thực là một hạnh cao qúi, được tất cả chư Phật trong ba đời thi hành, nên nay Ngài tuân theo hạnh đó, là giữ đúng truyền thống, có chi đâu là nhục nhã.

Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau đây:

Hãy hăng hái và đừng phóng dật,
Mà lãng xao hạnh khất sĩ nầy.
Trang nghiêm chánh hạnh hành trì,
Thế gian hưởng lạc đời nầy, đời sau.
(Kệ số 168)

Đừng theo tà hạnhphóng dật,
Hãy nghiêm trì hạnh khất sĩ nầy.
Trang nghiêm chánh hạnh hành trì,
Thế gian hưởng lạc đời nầy, đời sau..."
(Kệ số 169).

Như thế, vì muốn Tỳ-kheo phải chịu nhẫn nhục bưng bình bát đến xin từng nhà, gieo duyên lành với dân chúng, mà hạnh khất sĩ được đặt ra, trước giúp Tỳ-kheo dứt được sự tham luyến về vật thực, sau để cho dân chúng có dịp tạo phước đức bằng cách cúng thí cho tu sĩ.

Ngày nay, chỉ có các nước theo Phật giáo Nam tông còn giữ được hạnh khất sĩ. Mỗi sáng, đứng nhìn hàng tu sĩ uy nghi trong bộ cà-sa màu vàng, bưng bình bát, chờ được bố thí, chẳng khỏi khởi lòng xúc động trước cảnh trang nghiêm đó!

4) Thắc mắc thứ hai: Hạnh Đầu-đà thứ 10: ở chỗ trống chẳng có che lợp hạnh thứ 11: ở nơi mồ mả, ngày nay chẳng thể nào thực hành đúng được, vì lẽ thời tiết và qui luật. Vì thời tiết ướt át mưa dầm, chẳng thể ở mãi chỗ chẳng có che lợp; vì qui luật thành phố, chẳng thể đi vào nghiã địa đã đóng cổng từ lúc mặt trời lặn.

Đáp: Đúng vậy! Nếu chẳng thực hành được đúng theo như thời xưaẤn độ, nhưng ngày nay, vẫn có thể thi hành hai hạnh đó, theo đúng tinh thần Đầu-đà:

- hạnh thứ 10 cốt ở chỗ diệt lòng quyến luyến về chỗ cư trú, tánh ham trang hoàng nhà cửa cho thật sang, thật đẹp, để hãnh diện với xóm riềng. Ngày nay, những người có trách nhiệm về tài chánh trong một tự viện, nên nghĩ đến việc mở mang phòng ốc thêm cho tăng ni trú ngụ, mở phòng đọc sách cho thanh niên Phật tử, trang bị tủ sách Phật học cho các đạo hữu, hơn là lo xây cổng chùa bên ngoài cho đẹp, hoặc thiết lập thật nhiều tượng Phật trong vườn chùa.

- hạnh thứ 11 ở nơi mồ mả, nên để hạnh thứ 8 ngồi nơi nhàn tịnh thay thế. Chẳng có phương tiện chuyên chở để đến những nơi yên vắng trong rừng, trên núi, hoặc ngoài bãi biển, nhưng người Phật tử, ngay trong căn nhà chật hẹp của mình, cũng có thể có một chỗ ngồi nhàn tịnh, để tỉnh tâm, để ngồi thiền. Chẳng cần phải trang hoàng khung cảnh chung quanh chỗ ngồi, chỉ cần trang trí ngay bên trong tâm bằng cách dứt mọi lo toan hằng ngày trong mười phút, nửa giờ ngồi xếp bằng trầm tư cũng đủ lấy lại bình thản cho tâm hồn, trong khi mọi người khác đang an giấc.

5) Vài đề nghị với người tu tại nhà, liên quan đến việc ứng dụng tinh thần hạnh Đầu-đà:

51. Vấn đề mặc:

511. Chỉ cần giữ lại chừng năm, sáu bộ quần áo, các y phục cũ, xin gọi điện thoại đến các Cơ quan từ thiện để gởi tặng cho các người đang cần đến;

512. Muà đông, chẳng cần mặc áo lông chồn, mang giầy hải cẩu, áo vải nylon dồn bông cũng đủ ấm.

513. Dưới gầm giường chẳng phải là kho để chứa giầy dép; xin đừng bắt chước vị đệ nhứt phu nhơn kia có tới gần hai ngàn đôi giầy cao gót!

52. Vấn đề ăn:

521. Nên tự đặt nguyên tắc cho chính mình: ăn đến chén thứ ba, đừng ăn gì thêm nữa. Tránh được phì nộn.

522. Ngoài bữa ăn chánh ra, chẳng ăn quà vặt, nhứt là "chip", đừng nhai kẹo cao su (hãy tỏ lòng xót thương đến hàm răng)

524. Ăn chay phải đúng ngày, chẳng có việc châm chước ăn bù vào ngày khác (sai mất kỷ luật tuân giới sát sanh). Đừng bao giờ nghĩ trong bụng, tối rồi, Phật ngủ, ăn một chút có làm sao! Giữ Giới là giữ cho mình, giữ cho thanh tịnh, chớ nào phải sợ Phật quở phạt chi đâu!

525. Vừa uống nước xong, thấy có bánh ngọt mang lên, đừng ăn thêm mặc dầu được mời mọc.

53. Vấn đề ở:

531. Đi cắm trại, chớ mang nệm theo, túi ngủ là đủ, thử tập sống thiếu tiện nghi vài hôm, coi đã ra sao?

532. Chẳng ngủ trưa, nằm nghỉ mươi phút, thở dài hơi trong chánh niệm.Tu sĩ theo hạnh Đầu-đà đâu có nằm!

533. Từ nhà đến trạm xe buýt, xe điện hầm cách xa chừng năm trăm thước, mùa đông cứ đi bộ, đừng đi xe; vừa đi vừa tưởng như đang đi thiền hành trên núi tuyết. Các tu sĩ ngày xưa theo hạnh Đầu-đà còn đi xa hơn, để khất thực.

6) Xin ghi nhớ:

Hạnh Đầu-đà tuy được Đức Phật đặt ra để cho các Tỳ-kheo ngày xưa tu tập, hầu giữ vẹn giới hạnh, nhưng vào thời buổi nầy, các Phật tử vẫn còn có thể ứng dụng đúng theo tinh thần hạnh Đầu-đà trong nếp sống hằng ngày.

- Tinh thần Hạnh Đầu-đà: Thiểu dục, Tri túc (Ít muốn, biết đủ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11687)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12007)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11147)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11388)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12106)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12597)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10819)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18041)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11758)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9992)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10220)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12401)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15407)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11279)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14376)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12152)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15431)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12042)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12466)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11232)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12135)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10664)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12587)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13213)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14899)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12743)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16626)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19725)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13160)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12701)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12304)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11912)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10955)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13573)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11992)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11892)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11683)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12801)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14582)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12665)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15709)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13662)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12956)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9916)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18062)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11227)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9122)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12224)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13098)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10350)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12239)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15363)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16657)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12272)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11530)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14334)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19774)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14214)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24669)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10731)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant