Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Chín: Xưng Danh Hiệu Chư Phật

05 Tháng Năm 201100:00(Xem: 7738)
Phẩm Thứ Chín: Xưng Danh Hiệu Chư Phật

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN THIỂN THÍCH
Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng thuật
Vạn Phật Thánh Thành

Quyển Trung
Phẩm Thứ Chín 
XƯNG DANH HIỆU CHƯ PHẬT

 

"Xưng" tức là xưng niệm, có nghĩa là đọc lên và tưởng nhớ đến; "danh hiệu" có nghĩa là tên. Vậy, "Xưng Danh Hiệu Chư Phật" tức là đọc tên của các đức Phật và nhớ tưởng tới các ngài. Trước kia tôi đã từng giảng rồi, lúc tối sơ mỗi một đức Phật đều có một vạn danh hiệu khác nhau. Về sau, vì người ta không thể nào nhớ được nhiều như thế, cho nên mới giảm bớt, chỉ còn một ngàn danh hiệu. Song, một ngàn danh hiệu thì người bình thường cũng không thể nhớ một cách mạch lạc được (như tôi chẳng hạn, một kẻ không có năng lực nhớ dai cho lắm—bắt đầu niệm từ danh hiệu thứ nhất trở đi, khi niệm đến danh hiệu thứ một ngàn thì tôi quên mất danh hiệu thứ nhất!); do đó, về sau giảm xuống còn một trăm danh hiệu. Tuy rằng mỗi một đức Phật chỉ còn một trăm tên gọi nhưng người ta cũng không thể nhớ hết được và cảm thấy như thế vẫn còn quá nhiều, quá phức tạp; cho nên sau này lại giản lược chỉ còn mười tên gọi—mỗi đức Phật chỉ còn vỏn vẹn mười danh hiệu mà thôi.

Mười danh hiệu của mỗi đức Phật là: 1) Như Lai, 2) Ứng Cúng, 3) Chánh Biến Tri, 4) Minh Hạnh Túc, 5) Thiện Thệ Thế Gian Giải, 6) Vô Thượng Sĩ, 7) Ðiều Ngự Trượng Phu, 8) Thiên Nhân Sư, 9) Phật, 10) Thế Tôn

Vậy, đây là phẩm thứ chín, "Xưng Danh Hiệu Chư Phật." Trong phẩm này, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát nói về công đức có được do sự xưng niệm danh hiệu của chư Phật.

 

 

Kinh văn:

Lúc đó, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nay con vì chúng sanh đời sau mà diễn nói về sự lợi ích, làm cho họ trong lúc sanh cùng lúc tử đều được những lợi ích lớn lao. Cúi xin Ðức Thế Tôn lắng nghe điều con nói."

Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: "Nay ông muốn khởi lòng từ bi, cứu vớt tất cả chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo mà diễn nói sự chẳng thể nghĩ bàn. Bây giờ chính đã phải lúc, ông nên nói ngay đi, Ta sắp sửa vào Niết Bàn rồi! Ông hãy sớm hoàn tất lời nguyện đó, thì Ta cũng không còn phải lo nghĩ gì đến tất cả chúng sanhhiện tạivị lai nữa."

Bồ Tát Ðịa Tạng bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Vô Biên Thân Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này mà tạm thời sanh lòng cung kính, thì liền được vượt thoát tội nặng sanh tử trong bốn mươi kiếp; huống là vẽ đắp hình tượng, cúng dường, tán thán! Người này sẽ được vô lượng vô biên phước báo."

 

Lược giảng:

Lúc đó, sau khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói dứt lời trong phẩm thứ tám, Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nay con vì chúng sanh đời sau mà diễn nói về sự lợi ích, làm cho họ trong lúc sanh cùng lúc tử đều được những lợi ích lớn lao. Cúi xin Ðức Thế Tôn lắng nghe điều con nói. Con thỉnh cầu Ðức Thế Tôn, xin Ngài hãy nghe con nói về nguyện lực của chính con." 

"Chúng sanh đời sau" tức là trong đó bao gồm cả quý vị và tôi hiện nay. Quý vị chớ cho rằng mình không ở trong số đó—hiện tại quý vị và tôi, chúng ta đều nằm trong số các "chúng sanh đời sau" mà Ðịa Tạng Vương Bồ Tát đang nhắc tới này!

 

Ðức Phật bảo Bồ Tát Ðịa Tạng rằng: "Nay ông muốn khởi lòng từ bi, cứu vớt tất cả chúng sanh tội khổ trong Lục Ðạo—độ thoát những kẻ trót tạo nghiệp tội và phải chịu khổ sở trong sáu đường là trời, người, A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—mà diễn nói sự chẳng thể nghĩ bàn, trình bày những sự về thứ nguyện lực không thể nghĩ bàn. Bây giờ chính đã phải lúc, ông nên nói ngay đi! Nay đúng là thời điểm thích hợp để nói về việc đó, vậy ông hãy mau mau nói ra đi; vả lại, Ta sắp sửa vào Niết Bàn rồi! Ông hãy sớm hoàn tất lời nguyện đó, thì Ta cũng không còn phải lo nghĩ gì đến tất cả chúng sanhhiện tạivị lai nữa. Ta nay sắp sửa nhập Niết Bàn, cho nên Ta muốn ông sớm hoàn thành viên mãn hạnh nguyện đó. Ta bây giờ cũng chẳng còn phải ưu tư lo lắng cho các chúng sanh trong đời này và đời sau nữa!"

Trong phần kinh văn này, Ðức Phật nói rằng Ngài "sắp sửa vào Niết Bàn"; như thế có nghĩa là Phật thuyết Kinh Ðịa Tạng sau khi nói xong Kinh Pháp Hoa, và trước khi nói Kinh Niết Bàn.

 

Bồ Tát Ðịa Tạng bạch cùng Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Vô Biên Thân Như Lai." Thân tướng của Ðức Phật này thì to lớn vô biên, choán đến tận cùng của cõi hư khôngtrùm khắp cả Pháp Giới. "A-tăng-kỳ" là tiếng Phạn; "a-tăng-kỳ kiếp" có nghĩa là số kiếp nhiều đến vô lượng vô biên.

Ở cõi Nam Diêm Phù Ðề, giả sử "như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này—Ðức Vô Biên Thân Như Lai—mà tạm thời sanh lòng cung kính, thì liền được vượt thoát tội nặng sanh tử trong bốn mươi kiếp; huống là vẽ đắp hình tượng, cúng dường, tán thán! Người này—kẻ vẽ đắp hình tượng của Ðức Phật Vô Biên Thân để cúng dường, lễ bái, khen ngợi—sẽ được vô lượng vô biên phước báo, nhiều đến nỗi không thể nào tính đếm được!"

Bây giờ tôi kể cho quý vị nghe một công án. Vào thời Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni còn trụ thế, có một cụ già nọ muốn xuất gia tu hành. Hôm ấy, cụ đến Kỳ Hoàn Tinh Xá để xin gặp Phật thì lại nhằm lúc Phật đi vắng. Bấy giờ, các đệ tử của Phật thấy ông cụ già nua tuổi tác thì có vẻ không thích lắm—tuổi đã cao, vừa già lại vừa nghèo, đã vậy còn lôi thôi lếch thếch nữa, như thế mà còn muốn xuất gia để làm gì chứ? Khi ấy, các vị đệ tử đã chứng quả A La Hán nhập Ðịnh quán sát thì thấy cụ già này chẳng có một chút căn lành nào cả, trong suốt tám vạn đại kiếp cụ chưa hề trồng được một mảy may thiện căn; mà như thế thì cụ không thể nào xuất gia, vì muốn xuất gia thì nhất định phải có thiện căn mới được! Có câu:

 

Chớ bảo xuất gia là chuyện dễ, 

Ấy do nhiều kiếp trồng Bồ Ðề! 

(Mạc đạo xuất gia dung dị đắc, 

Giai nhân lũy thế chủng Bồ Ðề.) 

Quývị thấy đó, xuất gia không phải là chuyện đơn giản! Phải là người mà đời đời kiếp kiếp đều gieo trồng rất nhiều thiện căn, thì mới có thể được xuất gia. Những người không có thiện căn mà muốn xuất gia tu hành, thì cũng khó thành công. Có người, niệm trước mới hăng hái muốn xuất gia tu tập, thì niệm sau lại do dự phân vân: "Ði tu sao thấy khó khăn, vất vả quá! Thôi, thôi, tôi không muốn xuất gia tu hành nữa!" Rồi chính mình lại thuyết phục mình bỏ cuộc: "Thôi, đừng! Ðừng đi tu nữa!" 

Lại nói về cụ già nọ, bởi các đệ tử A La Hán của Phật đều thấy cụ không có thiện căn, cho nên không nhận cho cụ xuất gia. Cụ già này vốn nghèo đến nỗi không đủ cơm ăn áo mặc và đã ngoài chín mươi hoặc xấp xỉ một trăm tuổi rồi, đi đứng cũng rất khó khăn, chậm chạp. Bấy giờ, cụ bị khước từ, không được xuất gia, nên buồn rầu than thở: "Tôi già nua tuổi tác như vầy rồi, chỉ muốn xuất gia để được an lạc thanh thản đôi chút lúc tuổi già sức yếu, nào ngờ đệ tử của Phật lại khăng khăng chẳng chịu thâu nhận!" Rồi cụ bật khóc, vừa đi vừa khóc lóc sụt sùi rất thảm thiết. Bất chợt, trong lòng cụ nảy ra một ý định; ý định gì? Cụ thở dài tự nhủ: "Thôi thì mình đi tự vẫn cho rồi! Chỉ việc nhảy xuống sông Hằng là xong chuyện!" Và thế là cụ thất thểu lê gót về phía sông Hằng.

Khi cụ còn cách sông Hằng không bao xa, sắp sửa lao mình xuống dòng nước xiết, thì Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đi đến và hỏi rằng: "Ôi! Này ông lão, ông đang làm gì thế ? Ông định nhảy xuống sông ư? Tuổi cao như thế mà vẫn còn muốn bơi lội sao? Ôi! Tuổi tác của ông đã quá cao rồi, tay chân đều vụng về chậm chạp, đâu còn nhanh nhẹn để có thể bơi lội được nữa!"

Cụ già đau khổ đáp: "Không phải như thế! Tôi chỉ muốn chết, tôi muốn kết liễu đời mình cho rồi. Tôi không còn muốn sống nữa. Sự sống bây giờ đối với tôi không có ý nghĩa gì cả!"

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ôn tồn gặng hỏi: "Tại sao ông lại bảo rằng cuộc sống của ông không có ý nghĩa? Ông có thể nói cho Ta rõ nguyên nhân được chăng?"

Cụ già bèn kể lể: "Tôi vì cảm thấy cuộc đời này không có ý nghĩa, cho nên muốn xuất gia, theo Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni tu hành. Hôm nay tôi đến Tinh Xá để xin được xuất gia đi tu, nhưng các đệ tử của Phật nói rằng tôi không có thiện căn, cho nên họ không thể thâu nhận tôi được. Tâm trí tôi tha thiết muốn xuất gia, song lại xuất gia không được, thế thì tôi còn sống làm gì nữa? Tôi thà chết đi còn hơn! Do đó, tôi muốn nhảy xuống sông Hằng, uống no một bụng nước mà chết, rồi kiếp sau đầu thai làm người trai trẻ để xuất gia tu hành. Chứ bây giờ các đệ tử của Phật đều không thích người già nua, lại thấy mặt mày tôi có lẽ cũng xấu xí cằn cỗi, nên không ai thích tôi cả!"

Nghe qua tự sự, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dịu dàng bảo: "Ồ! Ông lão muốn xuất gia ư? Thế thì ông khỏi cần nhảy xuống sông nữa! Ta sẽ thâu nhận ông làm đệ tử, vậy ông hãy theo Ta trở về Tinh Xá!"

Cụ già lấy làm ngạc nhiên vội hỏi: "Thật ư? Thế ... chẳng hay Ngài là ai vậy?"

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đáp: "Ta là Phật Thích Ca Mâu Ni đây!"

Cụ già mừng rỡ hỏi lại: "Ôi! Ngài là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ư? Ngài bằng lòng thâu nhận con làm đệ tử sao?" 

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni gật đầu: "Phải, Ta thấy ông than khóc rất đáng thương, thôi thì Ta nhận ông làm ‘lão đệ tử’ vậy!"

Sau đó, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dẫn cụ già về Kỳ Hoàn Tinh Xáthuyết pháp cho nghe; vừa nghe Phật thuyết pháp cụ lập tức chứng được quả vị A La Hán. (Lúc Phật còn trụ thế, có rất nhiều người chứng được A La Hán quả. Bởi Ðức Phật xem xét nhân duyên của họ mà thuyết pháp, cho nên Phật vừa giảng là họ liền tỉnh ngộchứng đắc quả vị.)

Bấy giờ, có một số đệ tử của Phật thầm nghĩ rằng: "Thật là kỳ lạ! Ông cụ này đã già như vậy, lại không có thiện căn gì cả, thì làm thế nào lại chứng quả vị được?" Do đó, họ sanh lòng hoài nghi đối với Phật Pháp, và tức tốc đến thỉnh vấn Phật: "Bạch Ðức Thế Tôn! Ông lão này lẽ ra không thể xuất gia được; nay ông ta được Ðức Thế Tôn cho phép xuất gia, rồi lại chứng được quả vị nữa. Thật là vô cùng kỳ lạ! Việc này khiến chúng con sanh lòng hoài nghi đối với Phật Pháp."

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng giải: "Hàng A La Hán các ông chỉ biết được những việc nhân quả, thiện ác, nội trong tám vạn đại kiếp trở lại mà thôi; còn nếu lâu xa hơn nữa, tức là ở ngoài tám vạn đại kiếp, thì các ông không thể thấy được. Cũng như các ông ở trong căn phòng này, thì những việc xảy ra trong phòng các ông đều rõ biết, còn việc ở ngoài phòng thì các ông không thể nào biết được. Các ông phải biết, hơn tám vạn đại kiếp về trước, ông lão này vốn là một tiều phu thường lên núi đốn củi. Một hôm, ông tiều phu gặp phải một con cọp chực vồ lấy ông để ăn thịt. Ngay chính lúc tánh mạng đang bị đe dọa đó, ông tiều phu buột miệng niệm lên một tiếng ‘Nam mô Phật.’ Một tiếng niệm ‘Nam mô Phật’ trong khoảnh khắc đó cho đến hôm nay thì vừa chín muồi, do đó ông ấy được xuất gia và có thể chứng được quả vị."

Vì thế, những người hiện tại được xuất gia thì không phải là việc ngẫu nhiên hay tình cờ, mà là nhờ trong quá khứ họ đã từng niệm rất nhiều tiếng "Nam mô Phật"; bằng không, tôi cũng chẳng thể thâu nhận họ làm đệ tử!

 

 

Kinh văn:

"Lại vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tánh Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này và trong khoảnh khắc bằng khảy móng tay liền phát tâm quy y, người đó sẽ vĩnh viễn không còn thối chuyển nơi Ðạo Vô Thượng.

Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Ba Ðầu Ma Thắng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này thoáng qua lỗ tai, người đó sẽ được một ngàn lần sanh trong Lục Dục Thiên, huống chi là chí tâm xưng niệm!"

Lược giảng:

Ðịa Tạng Vương Bồ Tát bạch tiếp: "Lại vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tánh Như Lai." "Bảo" là quý báu; "tánh" nghĩa là tự tánh—"bảo tánh" ngụ ý là tự tánh rất quý báu

 

"Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này—Ðức Bảo Tánh Như Lai—và trong khoảnh khắc bằng khảy móng tay liền phát tâm quy y, nguyện quay về nương tựa Ðức Bảo Tánh Như Lai, người đó sẽ vĩnh viễn không còn thối chuyển nơi Ðạo Vô Thượng, mà sẽ mãi mãi an trụ nơi Vô Thượng Bồ Ðề Giác Ðạo." 

"Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Ba Ðầu Ma Thắng Như Lai." Có ai biết "ba-đầu-ma thắng" nghĩa là gì không? "Ba-đầu-ma" là "hồng liên hoa," tức là hoa sen màu đỏ; "thắng" nghĩa là trội hơn, vượt bực. Vậy, hoa sen màu đỏ thì nổi bật, hơn hẳn các hoa sen khác—trội hơn cả hoa sen màu vàng, hoa sen màu trắng, hoa sen màu xanh. Màu đỏ là màu "tối thắng," nổi bật nhất trong các màu sắc, cho nên gọi là "ba-đầu-ma thắng."

 

"Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này—Ðức Ba Ðầu Ma Thắng Như Lai—thoáng qua lỗ tai, người đó sẽ được một ngàn lần sanh trong Lục Dục Thiên, huống chi là chí tâm xưng niệm!"

"Lục Dục Thiên" là gì? Ðó là sáu tầng trời ở cõi Dục Giới—trời Tứ Thiên Vương, trời Ðao Lợi, trời Dạ Ma, trời Ðâu Suất, trời Hóa Lạc, và trời Tha Hóa Tự Tại. Thiên ma thì cư ngụcõi trời Tha Hóa Tự Tại

Chỉ nghe danh hiệu của Ðức Ba Ðầu Ma Thắng Như Lai "thoáng qua lỗ tai" mà đã có được công đức lớn lao dường ấy, thì huống chi là chính mình chí tâm xưng niệm danh hiệu của Ngài! Công đức này hẳn càng to lớn hơn nữa! Hôm nay giảng đến danh hiệu của Ðức Ba Ðầu Ma Thắng Như Lai, như vậy là mọi người trong giảng đường này ai nấy đều được nghe danh hiệu của Ngài "thoáng qua lỗ tai" cả rồi! 

Thuở xưa, có một người nọ đến chùa Ba La Ðề Mộc Xoa thấy cây am-ma-la trổ hoa màu vàng kim rất đẹp, bèn hái một đóa mang về. Khi đi ngang qua tượng của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, nhận thấy pho tượng Phật vô cùng vi diệu, viên mãn, người ấy liền đem đóa hoa vừa hái đến cúng dường trước tượng. Sau đó, người ấy đi hỏi một cụ già: "Thưa cụ, tôi đem đóa hoa am-ma-la cúng dường cho Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, thế thì tôi có được bao nhiêu công đức?"

Cụ già trả lời: "Ồ! Ðiều này thì tôi không biết, ông nên đi hỏi các người xuất gia thì hơn!"

Người ấy bèn đi hỏi một thầy Tỳ Kheo rằng: "Bạch Thầy, con đem đóa hoa am-ma-la đến cúng Phật, công đức ấy như thế nào?" 

Thầy Tỳ Kheo nọ đáp: "Ồ! Ðiều này tôi không được rõ, ông phải đi hỏi những vị tu Thiền Ðịnh mà đã chứng đắc quả vị A La Hán, những vị ấy mới có thể trả lời cho ông được."

Thế là người ấy lại đi tìm gặp một vị đã chứng quả A La Hán và hỏi rằng: "Bạch Ngài, con đem đóa hoa am-ma-la đến cúng Phật, công đức ấy rộng lớn như thế nào? Ngài có thể nói cho con rõ chăng?"

Vị A La Hán đáp: "Hãy chờ Ta quán sát xem! Ờ, với công đức này, suốt trong tám vạn đại kiếp ông sẽ được hưởng vô tận phước báo, không thể nào tính đếm rõ ràng được. Còn ngoài tám vạn đại kiếp như thế nào, tôi đây cũng không thể rõ biết, ông phải thỉnh vấn Ðức Phật mới được!"

Người ấy bèn đi hỏi Phật, Phật bảo rằng: "Công đức này nhiều đến vô cùng vô tận, có thể choán đầy cả hư không và bao trùm khắp cả Pháp Giới."

Người ấy đem một đóa hoa cúng dường cho Phật thì được hưởng phước báo to lớn như thế; còn chúng ta được nghe danh hiệu của Phật "thoáng qua lỗ tai" mà thôi, thì cũng có thể được một ngàn lần sanh về sáu tầng trời cõi Dục—công đức này thật không thể nghĩ bàn!

 

 

Kinh văn:

"Lại không thể nói hết, không thể nói hết a-tăng-kỳ kiếp về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Sư Tử Hống Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này mà nhất niệm quy y, người ấy sẽ được gặp vô lượng chư đức Phật xoa đảnh thọ ký cho.

Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Câu Lưu Tôn Phật. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này mà chí tâm chiêm lễ hoặc lại tán thán, người ấy nơi pháp hội của một ngàn đức Phật trong thời Hiền Kiếp sẽ làm vị Ðại Phạm Vương, được thọ thượng ký.

Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Phật. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì vĩnh viễn không đọa vào ác đạo, thường được sanh vào chốn trời, người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.

Lại vô lượng vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Thắng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì sẽ không bao giờ bị đọa vào ác đạo, mà thường ở trên cõi trời, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.

Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tướng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này bèn sanh lòng cung kính, thì người ấy không bao lâu sẽ đắc quả A La Hán.

Lại vô lượng vô số kiếp về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Ca Sa Tràng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì sẽ siêu thoát tội sanh tử trong một trăm đại kiếp."

 

Lược giảng:

Ðịa Tạng Vương Bồ Tát bạch tiếp: "Lại không thể nói hết, không thể nói hết a-tăng-kỳ kiếp về thuở quá khứ ..." Các đức Phật được kể ra ở đây đều là những đức Phật trong quá khứ. "A-tăng-kỳ kiếp" là số kiếp nhiều đến vô lượng vô biên, không thể nào tính đếm được. "Bất khả thuyết" tức là nói không xuể, kể không xiết được. 

Vô số kiếp về trước, thời gian lâu xa đến nỗi không thể nói được là bao lâu, "có đức Phật ra đời hiệu là Sư Tử Hống Như Lai." Thuở ấy, có Ðức Phật Sư Tử Hống xuất thế—khi Ðức Phật này thuyết pháp thì âm thanh giống như tiếng rống của sư tử vậy.

 

"Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này—Ðức Sư Tử Hống Như Lai—mà nhất niệm quy y, có thể trong một niệm mà dốc lòng quay về nương tựa, tín thọ, người ấy sẽ được gặp vô lượng chư Phật xoa đảnh thọ ký cho."

"Lại về thuở quá khứđức Phật ra đời hiệu là Câu Lưu Tôn Phật." "Câu-lưu-tôn" là Phạn ngữ; Trung Hoa dịch là "sở ưng đoạn" (đáng đoạn dứt), lại cũng dịch là "trang tạng" (hàm chứa sự trang nghiêm.

 

"Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này—Ðức Phật Câu Lưu Tôn—mà chí tâm chiêm lễ hoặc lại tán thán, người ấy nơi pháp hội của một ngàn đức Phật trong thời Hiền Kiếp sẽ làm vị Ðại Phạm Vương, được thọ thượng ký." Giả sử có kẻ nam người nữ nào nghe được danh hiệu của Ðức Phật Câu Lưu Tôn, liền toàn tâm toàn ý, dốc lòng chiêm ngưỡng lễ bái hoặc dùng kệ tụng để khen ngợi Ðức Phật này, thì người đó sẽ được làm Ðại Phạm Thiên Vương trong pháp hội của một ngàn đức Phật ở thời Hiền Kiếp (Thiên Phật Hội), và được thọ ký ở trên hàng Ðại Phạm Thiên Vương.

"Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Phật." Tôi biết quý vị ở đây cũng không có ai biết "tỳ-bà thi" nghĩa là gì, bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị nghe, và sau đó quý vị phải ráng ghi nhớ vì từ ngữ này rất khó tìm tòi tra cứu, ngay cả các từ điển Phật Học cũng rất ít cuốn có ghi chép. 

"Tỳ-bà," Trung Hoa dịch là thắng, "thi" dịch là quán; vậy "tỳ-bà-thi" có nghĩa là "thắng quán" (sự quán tưởng thù thắng), và cũng là "chủng chủng quán" (vô số quán tưởng).

 

"Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này—Ðức Phật Tỳ Bà Thi—thì vĩnh viễn không đọa vào ác đạo, mãi mãi không còn phải đọa lạc trong các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, mà thường được sanh vào chốn trời, người, hưởng sự vui thù thắng vi diệu."

Hiện nay chúng ta nghe giảng Kinh Ðịa Tạng, được nghe đến danh hiệu của Ðức Phật Tỳ Bà Thi rồi, như vậy thì chúng ta sẽ vĩnh viễn không còn bị đọa vào ác đạo. Tuy nhiên, quý vị phải vĩnh viễn không bao giờ làm việc ác nữa mới được; bằng không, nếu sau khi được nghe tới danh hiệu của Ðức Phật này rồi mà vẫn cứ làm điều ác như trước, thì quý vị vẫn bị đọa lạc như thường! Vì sao ư? Bởi vì quý vị chẳng thể bỏ ác theo thiện, chẳng chịu sửa đổi sai lầm! 

Do đó, quý vị chớ nên nghĩ rằng: "Tôi đã được nghe đến danh hiệu của Ðức Phật Tỳ Bà Thi rồi, như thế tôi sẽ không bao giờ bị đọa vào ba đường ác"; rồi bèn ung dung đi đốt nhà cướp của, giết chóc hãm hại người khác, phạm đủ thứ tội ác chẳng chút e dè! Quý vị không nên suy nghĩ như vậy, bởi suy nghĩ như vậy là quá si mê, ngu xuẩn! Phải biết rằng cho dù được nghe danh hiệu Phật, song nếu vẫn còn làm điều ác thì quý vị vẫn phải đọa vào ba ác đạo như thường. Vậy, nếu sau khi nghe được danh hiệu Phật, quý vị phải không làm điều ác nữa, thì mới có thể không bị đọa lạc vào ba đường ác, thường được sanh trong cõi người, cõi trời, an hưởng sự vui thù thắng vi diệu.

 

"Lại vô lượng vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Thắng Như Lai." Theo tiếng Phạn, "bảo" là "la-đạt-nam"; và "thắng" là "tỳ-bà."

 

"Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này—Ðức Bảo Thắng Như Lai—thì sẽ không bao giờ bị đọa vào ác đạo, mà thường ở trên cõi trời, hưởng sự vui thù thắng vi diệu." Người ấy rốt ráo sẽ không bị đọa lạc trong đường ác, thường được ở tại cõi trời, thọ hưởng sự vui thù thắng vi diệu nhất.

 

"Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tướng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này—Ðức Bảo Tướng Như Lai—bèn sanh lòng cung kính, thì người ấy không bao lâu sẽ đắc quả A La Hán." 

"Lại vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Ca Sa Tràng Như Lai." "Ca sa tràng" tức là dùng áo cà-sa để làm tràng phan, cờ hiệu. 

"Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này thì sẽ siêu thoát tội sanh tử trong một trăm đại kiếp." Nếu có người nào được nghe tới tên của Ðức Ca Sa Tràng Như Lai, thì người ấy sẽ được thoát khỏi tội nặng sanh tử suốt trong một trăm đại kiếp.

 

 

Kinh văn:

"Lại về thuở quá khứđức Phật ra đời hiệu là Ðại Thông Sơn Vương Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì người ấy sẽ được gặp chư Phật nhiều như cát sông Hằng quảng thuyết giáo pháp cho và tất thành Ðạo Bồ Ðề.

Lại về thuở quá khứ có Ðức Tịnh Nguyệt Phật, Ðức Sơn Vương Phật, Ðức Trí Thắng Phật, Ðức Tịnh Danh Vương Phật, Ðức Trí Thành Tựu Phật, Ðức Vô Thượng Phật, Ðức Diệu Thanh Phật, Ðức Mãn Nguyệt Phật, Ðức Nguyệt Diện Phật, và các đức Phật như thế không thể nói hết đươc. .

Bạch Ðức Thế Tôn! Tất cả chúng sanh trong thời hiện tại cùng vị lai, hoặc trời hoặc người, hoặc nam hoặc nữ, chỉ niệm được danh hiệu của một đức Phật thôi, thì sẽ được vô lượng công đức, huống là niệm được nhiều danh hiệu! Những chúng sanh đó lúc sanh lúc tử đều được lợi ích lớn lao, cuối cùng không phải đọa vào ác đạo.

Như có người nào sắp mạng chung, hàng quyến thuộc trong nhà dù chỉ một người, vì người bệnh đó mà cất cao tiếng niệm một danh hiệu Phật, thì người sắp chết đó, trừ năm tội Vô Gián, còn các nghiệp báo khác đều được tiêu tan.

Năm tội Vô Gián kia dầu rất nặng nề, trải qua ức kiếp không được ra khỏi, nhưng nhờ lúc lâm chung được người khác vì mình mà xưng niệm danh hiệu của Phật, cho nên những tội đó cũng lần lần tiêu sạch; huống hồ chúng sanh tự xưng tự niệm, tất sẽ được vô lượng phước báo, trừ diệt vô lượng nghiệp tội."

 

Lược giảng:

Ðịa Tạng Vương Bồ Tát bạch tiếp: "Lại về thuở quá khứđức Phật ra đời hiệu là Ðại Thông Sơn Vương Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật này, thì người ấy sẽ được gặp chư Phật nhiều như cát sông Hằng quảng thuyết giáo pháp cho và tất thành Ðạo Bồ Ðề."

Giả sử có người nam người nữ nào nghe được danh hiệu của Ðức Ðại Thông Sơn Vương Như Lai, thì người ấy sẽ được gặp rất nhiều đức Phật—nhiều như số cát sông Hằng—và các ngài sẽ rộng vì người ấy mà giảng nói vô số Pháp tướng, trong tương lai người ấy nhất định sẽ thành tựu được quả vị giác ngộ Bồ Ðề vô thượng.

"Lại về thuở quá khứ có Ðức Tịnh Nguyệt Phật, Ðức Sơn Vương Phật, Ðức Trí Thắng Phật, Ðức Tịnh Danh Vương Phật, Ðức Trí Thành Tựu Phật, Ðức Vô Thượng Phật, Ðức Diệu Thanh Phật, Ðức Mãn Nguyệt Phật, Ðức Nguyệt Diện Phật, và các đức Phật như thế không thể nói hết đươc." Trên đây chỉ nêu ra danh hiệu của vài đức Phật mà thôi, chứ kỳ thật thì có tới rất nhiều đức Phật đến nỗi không thể kể xiết.

Ðịa Tạng Vương Bồ Tát lại bạch cùng Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni: "Bạch Ðức Thế Tôn! Tất cả chúng sanh trong thời hiện tại cùng vị lai, hoặc trời hoặc người, hoặc nam hoặc nữ, chỉ niệm được danh hiệu của một đức Phật thôi, thì sẽ được vô lượng công đức, huống là niệm được nhiều danh hiệu!" Trong đời này hay đời sau, nếu có bất cứ chúng sanh nào ở cõi trời hoặc cõi người, không cần phải niệm toàn bộ danh hiệu của các đức Phật mà chỉ cần niệm danh hiệu của một đức Phật mà thôi, thì công đức tạo được đã là vô lượng vô biên rồi, huống chi là chúng sanh đó còn niệm được danh hiệu của nhiều đức Phật khác nữa!

 

"Những chúng sanh đó lúc sanh lúc tử đều được lợi ích lớn lao, cuối cùng không phải đọa vào ác đạo—không bị đọa vào địa ngục, không bị đọa làm ngạ quỷ, và cũng không bị đọa làm súc sanh."

Ðịa Tạng Vương Bồ Tát bạch tiếp: "Như có người nào sắp mạng chung, hàng quyến thuộc trong nhà dù chỉ một người, vì người bệnh đó mà cất cao tiếng niệm một danh hiệu Phật, thì người sắp chết đó, trừ năm tội Vô Gián, còn các nghiệp báo khác đều được tiêu tan. Năm tội Vô Gián kia dầu rất nặng nề, trải qua ức kiếp không được ra khỏi, nhưng nhờ lúc lâm chung được người khác vì mình mà xưng niệm danh hiệu của Phật, cho nên những tội đó cũng lần lần tiêu sạch; huống hồ chúng sanh tự xưng tự niệm, tất sẽ được vô lượng phước báo, trừ diệt vô lượng nghiệp tội."

Dù trong gia quyến chỉ có một người thay cho người bệnh đang hấp hối kia mà lớn tiếng niệm một danh hiệu Phật, thì ngay cả năm tội Vô Gián mà kẻ sắp chết đó trót tạo lúc sinh thời cũng đều được tiêu trừ.

"Năm tội Vô Gián" là những tội nặng nhất, đáng phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong vô lượng kiếp, không ngừng chịu thống khổ, không bao giờ được thoát ra. Tuy nhiên, nhờ lúc người đó sắp mạng chung được người khác thay mặt mà xưng niệm danh hiệu Phật và tụng kinh giúp cho, nên tất cả những nghiệp tội của người đó đều dần dần được tiêu diệt. Vì thế, những chúng sanh có thể tự mình xưng niệm danh hiệu Phật, tự mình đọc tụng kinh điển, thì nhất định sẽ được vô lượng vô biên phước báo, và tiêu trừ được vô lượng vô biên nghiệp tội.

 

Hết phẩm thứ chín

-Hết quyển trung-

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11644)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11970)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11358)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12075)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12570)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10774)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17995)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11737)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9959)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10181)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12360)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15355)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11253)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15379)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12011)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12423)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11194)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12096)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10626)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12565)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13179)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14849)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12698)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16587)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19678)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13116)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13544)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11962)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11645)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14529)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12625)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15670)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13634)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12912)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18025)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11176)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9087)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12189)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10321)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12205)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15325)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16616)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14281)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19714)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24621)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10701)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant