Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 5

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 12125)
Phần 5

KINH NHẬT TỤNG CỦA CƯ SĨ

TỲ KHEO TĂNG-ÐỊNH HỢP SOẠN
PL. 2539 - TL. 1995


KARAṆĪYA METTĀ SUTTAṂ - TỪ BI KINH

1) Karaṇīya matthakusalena
Yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca
Sakko ujū ca suhujū ca
Suvaco c'assa mudu anatimāni.

2) Santussako ca subharo ca
Appakicco ca sallahukavutti
Santindriyo ca nippako ca
Appagabbho kulesu ananugiddho.

3) Na ca khuddaṃ samācare kīñci
Yena viññū pare upavadeyyuṃ
Sukhino vā khemino hontu
Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

4) Ye keci pāṇaphū tatthi
Tasā vā thāvarā vā anavasesā
Dīghā vā ye mahantā vā
Majjhimā rassakānukathưlā

5) Diṭṭhā vā yeva addiṭṭhā
Ye ca dưre vasanti avidū re
Bhū tā vā sambhavesi vā
Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

6) Na paro paraṃ nikubbetha
Nātimāññetha katthacinaṃ kiñci
Byārosanā patighasaññā
Nāñña maññassa dukkha miccheyya.

7) Mātā yathā niyaṃ puttaṃ
Āyusā ekaputtatamanurakkhe
Evampi sabbaphū tesu
Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ .

8) Mettañca sabba lokasmiṃ
Mānasaṃ bhāvaye aparimānaṃ
Uddhaṃ ādho ca tiriyañca
Asambādham averam asapattaṃ .

9) Tiṭṭhaṃ caram nisinno vā
Sayāno vā yāvat'assa vigatamiddho
Etaṃ satiṃ addhiṭṭheyya
Brahmametaṃ vihāraṃ idha māhu.

10) Diṭṭhiñca anupagamma sīlavā
Dassanena sampanno
Kămesu vineyya gedhaṃ
Nahijātu gabbhaseyyaṃ puna reti'ti.

Phiên dịch ra Việt ngữ:

1 - Người khôn lanh hằng tìm lợi ích cho mình và muốn đạt tới chỗ yên lặng (là Niết Bàn). Là người chánh trực, hoàn toàn chánh trực, nhu thuận, hiền lương và khiêm tốn.

2 - Biết kiên tâm, thủ phận thanh bần, ít phận sự, thu thúc lục căn, thận trọng, không liều lĩnh, không mê luyến gia đình.

3 - Không làm điều quấy nhỏ nhen nào mà các bậc trí tuệ hằng phê bình chỉ trích. Hằng mong muốn cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc an vui và đầy đủ tinh thần tráng kiện.

4 - Hằng mong muốn cho tất cả chúng sinh, không dư sót, bất luận yếu mạnh, dài vắn, trung bình, béo gầy, nhỏ lớn.

5 - Hữu hình hoặc vô hình, ở xa hoặc ở gần, đã sanh rồi hoặc sắp sanh ra, đều có một tinh thần hoan lạc.

6 - Chẳng hề lừa dối kẻ khác, chẳng khinh miệt người nào, bất cứ nơi đâu. Trong cơn phẫn nộ hoặc buồn phiền, chẳng hề toan tính hại kẻ khác.

7 - Luôn luôn có lòng bác ái rộng lớn bao la đối với tất cả chúng sinh, chẳng khác nào một bà mẹ bảo tồn đứa con duy nhất dám hy sinh thân mạng vì con.

8 - Hằng rải tư tưởng lành vô biên cùng khắp thế giới, bên trên, bên dưới, khoảng giữa, không chướng ngại, không thù oán không ác cảm.

9 - Trong khi tỉnh thức, lúc đi đứng nằm ngồi, hằng chuyên trì niệm niệm. Phương ngôn cho đó là một hạnh kiểm cao cả thế gian.

10 - Không tà kiến, có giới đức, đắc tuệ nhãn, đoạn tuyệt tình dục. Theo Chân Lý, người như thế không còn thọ sanh vào bào thai nữa.

TỪ BI KINH

(Phỏng dịch xuôi vần theo bài giảng của Ðại đức Narada.)

1. Người khôn có đủ đức tài,
Hằng tìm lợi ích tương lai cho mình.
Dọn lòng an tịnh thanh bình
Tiến vào Cực lạc Vô sinh Niết Bàn
Giữ lòng chánh trực đoan trang,
Nhu hòa lương thiện chẳng màng khoe khoang,

2. Thanh bần thủ phận an nhàn,
Không ham thế sự tịnh an cõi lòng.
Lục căn chế ngự nghiêm phòng,
Không cho liều lĩnh luyến mong dục trần.

3. Không làm nhơ bẩn tinh thần,
Tránh lời chê trách thánh nhân phê bình,
Mong cầu tất cả chúng sinh,
Dồi dào hạnh phúc hòa bình sinh nhai.

4. Cầu cho ba giới bốn loài,
Chúng sanh yếu mạnh, vắn dài bình trung.
Béo gầy nhỏ lớn không cùng,
Hữu hình, vô tướng muôn trùng gần xa.

5. Chưa sanh hoặc đã sanh ra
Thảy đều cộng hưởng hà sa phước lành.

6. Nguyện không lừa gạt, dối manh,
Khinh người, miệt chúng, hư danh trang hiền.
Dầu cho thân thuộc, xóm giềng,
Người dưng kẻ lạ các miền xa xăm.
Trong cơn phẫn nộ giận thầm,
Cũng không lo nghĩ mưu thâm hại người.

7. Như lòng từ mẫu thanh tươi,
Trăm cay ngàn đắng vui cười vì con.
Dầu cho một mất một còn,
Bảo tồn con trẻ vuông tròn ăn chơi.
Tình thương ghi tạc đời đời,
Từ bi rộng lớn bầu trời thênh thang.
Học đòi từ mẫu gương vàng,
Mở lòng thương xót bủa tràn gần xa.
Chúng sanh trong cõi Sa bà,
Thoát vòng khổ não, vượt ra luân hồi.

8. Hằng ngày rải khắp các nơi,
Bốn phương tám hướng gầm trời bao la.
Tấm lòng bác ái vị tha,
Gội nhuần tư tưởng đậm đà tình thương.
Lòng từ trong sạch như gương,
Không pha ác cảm không vương tư thù.

9. Cố tâm niệm niệm công phu,
Khi đi, khi đứng, chuyên tu tham thiền.
Nằm ngồi mặc niệm thường xuyên,
Sưu tầm đạo quả, gieo duyên Niết Bàn
Ðó là phương pháp thế gian,
Ðó là hạnh kiểm đưa đàng Vô sanh.
Thánh nhân ca tụng tán thành,
Xuôi dòng thánh vức, lữ hành Nhập lưu (Tu Ðà Hườn).

10. Vượt lên đến mức thắng ưu,
Khai thông tuệ nhãn, tầm sưu đỉnh đầu.
A Hàm đạo tuệ gươm mầu,
Ðoạn tuyệt tà kiến, xả câu dục tình.
Bất lai cảnh giới hữu hình,
Phạm thiên tạm ngự, nghiêm minh Niết Bàn.

KHANDHAPARITTA GĀTHĀ

Virū pakkhehi me mettaṃ
mettaṃ erāpathehi me
chabyāputtehi me mettaṃ
mettaṃ kanhāgotamakehi ca
apādakehi me mettaṃ
mettaṃ dipādakehi me
catuppadehi me mettaṃ
mettaṃ bahuppadehi me
māmaṃ apādako hiṃsi
māmaṃ hiṃsi dipādako
māmaṃ catuppado hiṃsi
māmaṃ hiṃsi bahuppado.

Sabbe sattā sabbe pāṇā
sabbe bhū tā ca kevalā
sabbe bhadrāni passantu
mā kiñci pāpamāgamā.

Appamāṇo Buddho appamāṇo Dhammo appamāṇo Saṅgho
pamāṇa vantāni siriṃsapāni ahivicchikā satabadī uṇṇānābhī sarabū mū sikā katā me rakkhā katā me parittā paṭikkamantu phū tāni.

So haṃ namo Bhagavato namo sattannaṃ Sammāambuddhānam'ti.

ANANTARIYA GĀTHA

Sīrasmiṃ me Buddhaseṭṭho
Sāriputto ca dakkhiṇe
Vāma aṃ se Moggallāno
Purato piṭakattayaṃ .
Pacchime mama Aanando
Catuddisā khīnāsavā
Samantā lokapālā ca
Indadeva sabrahmakā
Etesaṃ anubhāvena
Sabbe bhayā upaddavā
Aneka antarāyāpi
Vinassantu asesato
.

DASADISĀBUDDHASUTTA (KINH THẬP PHƯƠNG PHẬT)

1. Padumuttaro ca purabbāyaṃ
2. Āganeyye ca Revato
3. Dakkhine Kassapo Buddho
4. Haratiye ca Sumaṅgalo
5. Pacchime Buddha Sikhī ca
6. Bāyabbe ca Medhaṅkaro
7. Uttare Sakyamunī ceva
8. Isāne Saranaṅkaro
9. Kakusandho paṭhaviyaṃ
10. Ākāse ca Dīpaṅkaro

11. Ete dasadisābuddhā
Rājadhammassa pū jitā

12. Natthi rogabhayaṃ khemaṃ
Asokaṃ sampattidāyakaṃ
Dukkharogabhayaṃ natthi
Sabbā sattū viddhaṃ sentu

KINH THẬP PHƯƠNG PHẬT

1. Con xin đảnh lễ đức Phật Thượng-Liên- Hoa ở hướng đông
2. Con xin đảnh lễ đức Phật Li-Bà-Ða ở hướng đông nam
3. Con đảnh lễ đức Phật Ca-Diếp ở hướng nam
4. Con xin đảnh lễ đức Phật Phước-Toàn-Ða ở hướng tây nam
5. Con xin đảnh lễ đức Phật Tỳ-Khí ở hướng tây
6. Con xin đảnh lễ đức Phật Mỹ-Thắng-Ca ở hướng tây bắc
7. Con xin đảnh lễ đức Phật Thích-Ca-Mâu- Ni ở hướng bắc
8. Con xin đảnh lễ đức Phật Bảo-Trì-Ca ở hướng đông bắc
9. Con xin đảnh lễ đức Phật Câu-Lưu-Tôn ở hướng dưới
10. Con xin đảnh lễ đức Phật Nhiên-Ðăng ở hướng trên

11. Ấy mười phương Chư Phật
Cúng dường bậc Pháp Vương

12. An ổn, không bệnh tai
Không sầu, hưởng bổng lộc
Chẳng khổ, bệnh, sợ hãi,
Mọi cừu địch ắt giải.

MAHA JĀYAMANGALA GĀTHĀ

1. Mahākāruṇiko nātho
Hitāya sabba pāṇinaṃ
Pū retvā pāramī sabbā
Patto sambodhi muttamaṃ
Etena sacca vajjena
Hotu me jayamaṅgalaṃ .

2. Jayanto bodhiyā mū le
Sakyānaṃ nandivaddhano
Evaṃ mayhaṃ jayohotu
Jayassu jayamaṅgalaṃ

3.Sakkatvā buddha ratanaṃ
Osadhaṃ uttamaṃ varaṃ
Hitaṃ deva manussānaṃ
Buddha tejena sotthinā
Nassantu' paddavā sabbe-
Dukkhāvū pasamentu me.

4. Sakkatvā dhamma ratanaṃ -
Osadhaṃ uttamaṃ varaṃ
Parilāhū pasamanaṃ -
Dhamma tejena sotthinā
Nassantu' paddavā sabbe-
Bhayāvū pasamentu me.

5. Sakkatvā saṅgha ratanaṃ -
Osadhaṃ uttanaṃ varaṃ
Āhuṇeyyaṃ pāhuneyyaṃ -
Sangha tejena sotthinā
Nassantu' paddavā sabbe-
Rogāvū pasamentu me.

6. Yaṃ kiñci ratanaṃ loke-
Vijjati vividhā puthū
Ratanaṃ buddha samaṃ natthi-
Tasmā sotthī bhavantu me.

7. Yaṃ kiñci ratanaṃ loke-
Vijjati vividhā puthū
Ratanaṃ dhamma samaṃ natthi-
Tasmā sothī bhavantu me.

8. Yaṃ kiñci ratanaṃ loke-
Vijjati vividhā puthū
Ratanaṃ saṅgha samaṃ natthi-
Tasmā sotthī bhavantu me.

9. Natthime saraṇaṃ aññaṃ -
Buddho me saranaṃ varaṃ
Etena saccavajjena-
Hotu me jayamaṅgalaṃ .

10. Natthi me saranaṃ aññaṃ -
Dhammo saranaṃ varaṃ
Etena saccavajjena-
Hotu me jāyamangalaṃ .

11. Natthi me saranaṃ aññaṃ -
Saṅgho saranaṃ varaṃ
Etena saccavajjena-
Hotu me jayamaṅgalaṃ

12. Sabbītiyo vivajjantu-
Sabbarogo vinassatu
Mā me bhavatvantarāyo-
Sukhī dīghāyuko bhava.

13. Bhavatu sabbamangalaṃ -
Rakkhantu sabbadevatā
Sabbabuddhānubhāvena-
Sadā sotthī bhavantu me.

14. Bhavatu sabbamangalaṃ -
Rakkhantu sabbadevatā
Sabbadhammānubhāvena-
Sadā sotthī bhavantu me.

15. Bhavatu sabbamangalaṃ -
Rakkhantu sabbadevatā
Sabba sanghānubhāvena-
Sadā sotthī bhavantu me.

16. Nakkhatta yakkha phū tānaṃ
Pāpaggaha nivāranā
Parittassānubhāvena
Hantu mayhaṃ upaddave.

17. Devo vassatu kālena-
Sassa sampatti hotu ca
Phīto bhavatu loko ca-
Rājā bhavatu dhammiko.

18. Sabbe buddhā balappattā
Paccekānañca yaṃ balaṃ
Arahantānañca tejena
Rakkhaṃ bandhāmi sabbaso.

NARASĪHA - GĀTHĀ

1. Cakka varaṅkita rattasupādo
Lakkaṇamaṇdita āyatapaṇhi
Cāmarachatta viphū sitapādo
Esa hi tuyha pitā narasīho.

2. Sakyakumāravaro sukhumālo
Lakkhaṇavitthata puṇṇasarīro
Lokahitāya gato naravīro
Esa hi tuyha pitā narasīho.

3. Puṇṇasasaṅkanibho mukhavaṇṇo
Devanarāna piyo naranāgo
Mattagajinda vilāsitagāmi
Esa hi tuyha pitā narasīho.

4. Khattiyasambhava aggakulīno
Devamanussa namassitapādo
Sīlasamādhi patiṭṭhitacitto
Esa hi tuyha pitā narasīho.

5. Aayatatuṅga susaṇthita nāso
Gopamukho abhinīla sunetto
Indadhanū abhinīla bhamưkho
Esa hi tuyha pitā narasīho.

6. Vaṭṭa sumaṭṭa susanthitagīvo
Sīhahanū migarājasarīro
Kāñcana succhavi uttama vaṇṇo
Esa hi tuyha pitā narasīho.

7. Suniddha sugambhira mañjusu- ghoso
Hiṅgulabandhu surata sujivho
Vīsati - vīsati - seta sudanto
Esa hi tuyha pitā narasīho.

8. Añjanavaṇṇa - sunīla - sukeso
Kañcanapaṭṭa - visuddhalalāto
Osadhi paṇḍara suddhasuṇṇo
Esa hi tuyha pitā narasīho.

9. Gacchati nīlapatheviya cando
Tāragaṇā parivethitarū po
Sāvakamajjhagato samanindo
Esa hi tuyha pitā narasīho.

Nghĩa:

ANH HÙNG KỆ

Tức kệ Hùng sư nhân (Narasīha gāthā) do công nương Da-du-đà-la chỉ dạy Thái tử La-hầu-la về đức tướng (Lakkhana sutta) của Ðức Thế Tôn, khi Ngài đang bộ hành qua các nẻo đường trong thành Ca tì la vệ, với đoàn Thánh chúng.

1. Ðầu bàn chân son quí nổi dấu in bánh xe thiêng,
Tha thướt gót dài thon trổ lắm văn chỉ diệu huyền,
Lòng bàn chân tô sẵn chổi phất tử với lọng tiên,
Ðó chính phụ hoàng con, Sư tử vương của Thánh hiền!

2. Dòng Sakya kiêu dũng, tánh quân tử ưa tịnh yên,
Phong thái đại trượng phu, tướng tốt thân thảy hiện tiền,
Thường ra tay anh tuấn, cứu thế chúng đủ thiện duyên.
Ðó chính phụ hoàng con, Sư tử vương của Thánh hiền!

3. Tròn đầy gương trăng sáng, nhan sắc xinh rõ đẹp tươi,
Ai nấy cũng đều yêu chúa tượng chung giữa trời người,
Ngài dường voi giống quí, dáng đứng đi khéo tự nhiên,
Ðó chính phụ hoàng con, sư tử vương của Thánh hiền!

4. Ngài dòng sang, tông quí, cấp "Khatti" [*] của hoàng gia.
Nên khiến cả nhân thiên lễ dưới chân chẳng nệ hà,
Ngài thường xuyên tỉnh giác, tuệ tâm đủ giới, thiền na,
Sư tử đại hùng nhân đó, phụ vương của trẻ mà!

[*] Khatti: Bắc Phạn là Ksatri(Xá tri), Tàu âm là Sát đế lỵ tức chiến sĩ. Sakya: Tàu âm là Thích Ca.

5. Dài và cao, thẳng đứng, mũi khác chi mũi Hằng nga,
Mắt biếc tợ bò tơ, khuất dưới nheo mượt nõn nà,
Mày Ngài xanh xanh thẫm, thể cái mống tận trời xa,
Sư tử đại hùng nhân đó, phụ vương của trẻ mà!

6. Tròn đều, trơn, mịn mát, cổ khoáng đạt, và hào hoa,
Thân với quai hàm vua, chúa sơn lâm khó sánh qua,
Vàng ròng tuy chất tốt, nước sang kém thua màu da,
Sư tử đại hùng nhân đó, phụ vương của trẻ mà!

7. Dịu trầm sâu, êm ấm, tiếng thuyết ngân giống đồng chung,
Khi hé mở làn môi, lộ lưỡi son đượm ánh hồng,
Hàng đôi răng ngọc trắng, bốn chục cái đủ trọn nguyên,
Ðó chính phụ hoàng con, sư tử vương của thánh hiền!

8. Toàn màu xanh như thuốc nhỏ mắt đau, tóc đậm đen!
Như bát mĩ vàng tây đánh bóng trơn trán phẳng liền!
Bạch hào [*] như sao sớm, rực rỡ chói lúc tàn đêm.
Ðó chính phụ hoàng con, sư tử vương của thánh hiền!

[*] Chòm lông trắng giữa hai chân mày của Ðức Phật.

9. Dường vầng trăng đi trước, soi mở lối giữa trời đêm,
Ðông đủ các vì sao nối gót theo bóng ngọc thiềm [*]
Kìa Sa môn Giáo chủ dẫn Tăng chúng bước nhẹ êm
Ðó chính phụ hoàng con, sư tử vương của thánh hiền!

[*] Con cóc ngọc, ám chỉ mặt trăng.

(Tỳ khưu Pháp Minh dịch)

BUDDHAPĀDANĀMAKKĀRAGĀTHĀDVADASAPARITTA,
trích ở kinh tụng Paritta 12 bộ của Miên văn.

Vandāmi Buddhaṃ bhavapāratiṇṇaṃ
Tiloka ketuṃ tibhaveka nāthaṃ
Yo lokaseṭṭho sakalaṃ kilesaṃ
Chetvāna bodhesi jānaṃ anantaṃ
Yaṃ Nammadāya nadiyā puline ca tīre,
Yaṃ Saccabandhagirike sumanā ca lagge,
Yaṃ tattha Yonakapure munino ca pādaṃ
Taṃ pādalañchanamāhaṃ sirasā- namāmi:
Suvaṇṇamālike;
Suvaṇṇapabbate;
Sumanakū ṭe;
Yonakapure;
Nammadāya nadiyā
Pañca pādavaraṃ ṭhānaṃ, ahaṃ vandāmi dū rato.

Nghĩa:

KỆ LỄ PHẬT - TÍCH

1. Thành tâm con đảnh lễ Ðức Phật Tổ Gotama,
2. Cái-thế đại hùng anh, biển khổ đau, đã băng qua.
3. Còn nêu trong tam giới, chỗ quy-ngưỡng của quần sanh,
4. Phiền não đoạn trừ xong, giác ngộ tâm đến Vô - sanh.
5. Thành tâm con đảnh lễ những Thánh- tích Sakya,
6. Lưu dấu tại trần gian đủ năm noi Phật trải qua:

Một là trên bãi cát kế mé sông Nammāda;
Hai, ở tận đầu non Suvaṇṇa - mālika;
Ba là trên đảnh núi Suvaṇṇa Pabbata;
Bốn là trên thượng đảnh núi Sumana- konta;
Năm, ở trong thành đô hiệu Yonakapurī.

7. Thành tâm con đảnh lễ năm dấu chân Ðức Mâu - ni;
8. Châu báu khắp trần gian xét kỹ ra thật khôn bì.

(Tỳ khưu PHÁP MINH dịch)

KHAGGAVISĀṆA SUTTA - TÊ GIÁC KINH

1. Bỏ đao trượng xa lìa vũ khí
Không còn gây khổ lụy quần sanh
Không con không bạn đồng hành
Thà như tê giác một mình ra đi...

2. Sống chung chạ ít gì luyến ái?
Xưa ái tình, nay lại sầu tình,
Thấy rồi tội khổ tình si,
Thà như tê giác một mình ra đi...

3. Gần bạn hữu, từ bi phát khởi
Vì thương ai bỏ lợi chính mình
Thấy điều giao hợp mà kinh
Thà như tê giác một mình ra đi...

4. Vợ con khỏi bao vây bịn rịn
Như cây to tàn nhánh rợp xanh
Măng lên suông đuột chẳng cành
Thà như tê giác một mình ra đi...

5. Nay rừng nọ không chi buộc trói
Muốn ăn đâu lui tới thích tình
Thanh nhàn thay, bậc cao minh
Thà như tê giác một mình ra đi...

6. Ðược mời thỉnh, khi thì giữa bạn
Lúc vân du, lúc hoãn hành trình
Tự thân nào thấy an bình
Thà như tê giác một mình ra đi...

7. Nỗi khoái lạc đòi khi họp bạn
Tình yêu con phương quảng dễ kinh
Ái ly là khổ cực hình
Thà như tê giác một mình ra đi...

8. Biết tri túc, rày đây mai đó
Bốn phuơng xa, nào có bất bình
Ðối đầu hiểm họa chẳng kinh
Thà như tê giác một mình ra đi...

9. Khó cầm cọng xuất ly một bậc
Thí chủ ơi, lui bước gia đình
Nhân luân người đã trọn tình
Thà như tê giác một mình ra đi...

10. Lá đã rụng mong gì mọc nữa?
Tắt lịm rồi hương lửa ba sinh
Hùng hào đoạn thế gian tình
Thà như tê giác một mình ra đi...

11. Nếu gặp bạn trí tri cao kiến
Hãy đẹp lòng chí nguyện cộng sinh
Vượt bao hiểm họa đành hanh
Thà như tê giác một mình ra đi...

12. Chẳng gặp bạn trí tri cao kiến
Ðể đẹp lòng chí nguyện cộng sinh
Vua từ ngôi, bỏ đế kinh
Thà như tê giác một mình ra đi...

13. May gặp bậc trí tri xứng đáng
Hơn hay bằng, kết bạn đồng hành
Bằng không cứ sống trọn lành
Thà như tê giác một mình ra đi...

14. Ðã thấy xuyến vàng y rực rỡ
Khua động theo nhịp cổ tay xinh
Dễ gì hai chiếc lặng thinh
Thà như tê giác một mình ra đi...

15. Có đôi bạn càng gây vướng bận
Tiếng lại qua tranh luận bất bình
Thấy gương trước mắt mà kinh
Thà như tê giác một mình ra đi...

16. Tánh hảo ngọt, thích mùi dục lạc
Tâm động vì vô sắc, hữu hình
Ngủ trần tội khổ chẳng khinh
Thà như tê giác một mình ra đi...

17. Như ung nhọt, cơ nguy, bịnh tật
Ðòn xóc chờ ta, thật dễ kinh
Ngũ trần hiểm họa đành rành
Thà như tê giác một mình ra đi...

18. Nóng, lạnh, đói, khát gì chẳng quản
Rắn, muỗi, mòng, mưa, nắng thình līnh
Vượt qua trên khắp lộ trình
Thà như tê giác một mình ra đi...

19. Như voi chúa, xả ly đoàn tượng
Ẩn rừng sâu vui sướng thỏa tình
Thân vàng, sen báu lịch xinh
Thà như tê giác một mình ra đi...

20. Không thuận cảnh vui gì hợp mãi?
Cứ theo lời của Thái Dương huynh
Thoát ly tạm lánh gia đình
Thà như tê giác một mình ra đi...

21. Tuồng ảo hóa có chi đâu lạ?
Lý đạt rồi Ðạo quả phát sinh
Việc vô minh đã liễu minh
Thà như tê giác một mình ra đi...

22. Chẳng tham quấy dối khi thèm khát
Không dèm pha, sạch cát bùn sình
Nào mong thế nghiệp kinh dinh
Thà như tê giác một mình ra đi...

23. Tự thân quyết xa lìa bạn ác
Lý không thông khó đắc tâm bình
Dễ duôi, ai dại kết tình
Thà như tê giác một mình ra đi...

24. Bậc quảng kiến hành trì pháp chánh
Thông lý huyền dứt mạnh nghi tình
Nếu không được kết bạn lành
Thà như tê giác một mình ra đi...

25. Thú trần tục vui chi lợi dưỡng
Thôi mơ màng sắc tướng âm thinh
Ngữ ngôn thu thúc, chân thành
Thà như tê giác một mình ra đi...

26. Kìa phụ mẫu, thê nhi thúc phọc
Nọ của tiền, lúa thóc vây quanh
Dục trần, giả biệt phân minh
Thà như tê giác một mình ra đi...

27. Bả dục lạc ham chi bám níu?
Càng ham vui, càng chịu khổ hình
Lý chân, nhận thức đành rành
Thà như tê giác một mình ra đi...

28. Mười kiết sử trùng vi bị xé
Lưới rách tung, cá lẹ thoát sinh
Xa nơi rừng lửa dục tình
Thà như tê giác một mình ra đi...

29. Mắt ngó xuống tư duy từng bước
Giữ lục căn, khử trược lưu thanh
Lửa tình, tham ái không sanh
Thà như tê giác một mình ra đi...

30. Bỏ gia thế xuất ly hành đạo
Ðắp cà sa, đầu cạo tóc xanh
Lá vàng nay đã lìa cành
Thà như tê giác một mình ra đi...

31. Khỏi nuôi ai, vô vi, vô dục,
Ðối vị trần, tri túc trì bình
Tâm không luyến khách gia đình,
Thà như tê giác một mình ra đi...

32. Năm pháp cái với tùy phiền não
Ðã dứt rồi, tâm đáo đại hành
Diệt luôn sân hận ái tình
Thà như tê giác một mình ra đi...

33. Quay lưng lại bỏ vui và khổ
Tiền hỉ ưu, đắc độ xả bình
"Chỉ" rồi tâm hảo tịnh thanh
Thà như tê giác một mình ra đi...

34. Tinh cần đạt tế vi Chân đế
Giải thoát tâm, cùng giới tuệ minh
Hùng tài, đại lực viên thành
Thà như tê giác một mình ra đi...

35. Chốn cô tịch, kiên trì thiền định
Tâm thường xuyên đeo dính Pháp minh
Luân hồi quán thấy cảm kinh
Thà như tê giác một mình ra đi...

36. Chuyên cần nguyện xả ly Ái dục
Mặc nhiên thường nghe học, nhớ rành
Rán hành đắc pháp Vô sanh,
Thà như tê giác một mình ra đi...

37. Hùng sư há sợ chi tiếng động?
Gió lòn qua lỗ trống lưới mành,
Ao bùn sen vẫn lịch thanh
Thà như tê giác một mình ra đi...

38. Nhờ nanh vuốt cực kỳ dũng mãnh
Hùng sư làm chúa cảnh rừng xanh
Thảnh thơi vui thú độc hành
Thà như tê giác một mình ra đi...

39. Từ, Xả, Hỉ và Bi giải thoát
Niệm thường thường đồng loạt liên minh
Tâm bình, thế giới hòa bình
Thà như tê giác một mình ra đi...

40. Tham với Sân và Si dứt tuyệt
Kiết sử tan vĩnh biệt Vô minh
Ðiềm nhiên chẳng sợ Tử sinh
Thà như tê giác một mình ra đi...

41. Sum họp khó quyết nghi Chơn giả
Lìa bạn bè, lợi ngã phân minh
Xả ly thế tục, phàm tình
Thà như tê giác một mình ra đi...

(Tỳ khưu PHÁP MINH dịch)

DASA KĀMAGUṆA - TỘI NGŨ TRẦN

1. Ngũ trần như khúc xương không,
Mà con chó đói cố công gậm lỳ.

2. Ngũ trần như thịt tử thi,
Qua tranh nhau mổ kể gì thúi tha.

3. Ngũ trần như đuốc rơm phà,
Cầm đi ngược gió ắt là phỏng tay.

4. Ngũ trần hầm lữa đỏ gay,
Sa chân xuống đó hằng ngày khổ đau.

5. Ngũ trần tợ giấc chiêm bao,
Thấy rồi liền mất dễ nào bền dai.

6. Ngũ trần như vật mượn xài,
Xài xong phải trả giữ hoài được sao?

7. Ngũ trần như trái chín cao,
Nại cây gãy nhánh vỡ đao thợ rừng.

8. Ngũ trần lao kiếm sáng trưng,
Phạm nhầm ắt khổ mựa đừng dễ duôi.

9. Ngũ trần dao thớt đủ đôi,
Người mê đắm bị bầm nhồi nát tan.

10. Ngũ trần đầu rắn hổ mang,
Có hai túi nọc lại càng dễ kinh.

Ai tu nấy liệu giữ mình,
Mười điều tội khổ đinh ninh chớ sờn.

(Tỳ khưu PHÁP MINH dịch.)

KỆ CỦA ÐẠI ÐỨC SARIPUTTA

Ðây là bài kệ của Ðại Ðức Sariputta (Xá-Lợi-Phất) đọc lên cổ xúy chúng ta, bất cứ lúc nào, hoặc trong hoàn cảnh nào, cũng nên đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Tam Bảo.

"Hãy trương cao ngọn cờ Chân lý!
Hãy hoằng dương Chánh Pháp cao minh
Những lúc bàn tay kinh khủng
Lạnh lùng siết chặt tim ta,
Ðừng tưởng nhớ đến Chư thiên, Thần thánh,
Vì như ta, họ cũng run sợ hãi hùng.

"Giữa rừng già hiu quạnh, trong bóng tối trậptrùng,
Khi ngọn đèn hy vọng lao chao muốn tắt;
Ðừng tưởng nhớ đến Chư thiên, Thần thánh;
Vì như ta, ánh sáng họ cũng tàn.

"Trong giờ phút lâm ly hấp hối,
Lời nghẹn giữa đôi môi, lệ trào như suối.
Ðừng tưởng đến Chư thiên, Thần thánh,
Vì như ta, họ cũng nhỏ lệ biệt ly.

"Hãy ngước mắt lên:
Nhìn ngọn cờ Tam Bảo!
Tưởng nhớ đến Ðức Thế Tôn, bậc chiến thắng oai hùng,
Ðến Chánh Pháp, ánh sáng huy hoàng vĩnh cửu,
Ðến Tăng Già,tập đoàn giới tịnh đức cao.
Hỡi đạo hữu!
Là chiến sĩ giữa quân thù "phiền não",
Mắt đừng lìa ngọn Tam Bảo uy kỳ,
Tâm đừng xa ân đức Phật - Pháp - Tăng,
Hãy dũng tiến trên con đường "Giải Thoát".

MORAPARITTA

Udetayañcakkhumā (Apetayañcak-khumā) ekarājā
harissavaṇṇo paṭhavippabhāso
taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ

Tayajja guttā viharemu divasaṃ (rattiṃ)
ye brahmaṇā vedagu sabbadhamme
te me namo te camaṃ palāyantu
namatthu Buddhānaṃ namatthu bodhiyā
namo vimuttānaṃ namo vimuttiyā
imaṃ so parittaṃ katvā moro carati esanā. (vāsamakappayīti)

Nghĩa:

KHỔNG TƯỚC KINH

Mặt trời ánh sáng như vàng
Chiếu trong thế giới khắp tràn bốn châu
Tự do soi cả đâu đâu
Là tròng con mắt hoàn cầu sanh linh
Cho nên tôi mới nghiêng mình
Cúi đầu cung kỉnh tỏ trình Ân cao
Các Ngài luân chuyển cùng nhau
Thay phiên trị nhật vị nào ngày nay
Chúng tôi ở dưới quyền nầy
Xin nhờ ủng hộ ngày rày an vui
Làm cho ác độc phai phui
Cho dù oan trái mưu thù cũng hư
Thiền tăng đạo sĩ các Sư
Tu hành đắc pháp hoặc cư xa gần
Từ bi soi đến kẽ cần
Biết nay tôi kỉnh tự thân yêu cầu
Nương nhờ quyền lực phép mầu
Ðặng cho tránh khỏi nạn sầu ngày nay
Phạm thiên, Thiên chúng các Ngài
Thọ tôi kỉnh lạy hiện nay xin tường
Bảo tồn khỏi sự bất lương
Trọn ngày cho được tránh đường họa tai
Cúi đầu lạy cả Như Lai
Các hàng Bồ tát chư Ngài Thánh Tăng
Với cùng Pháp Bảo siêu thăng
Ngày nay nhớ tụng để ngăn các điều.

(Tỳ khưu SANTAKICCO dịch)

PHỤC NGUYỆN

Phước lành tôi đã tạo ra
Các đời quá khứ hay là đời nay
Nghiệp chưa cho quả phước nào
Nguyện thành Pháp Ðộ để vào thiện căn
Sau nầy dù tạo mấy lần
Từ đây cho đến siêu thăng Niết Bàn
Hể làm chuyện tốt sẵn sàng
Mỗi điều hạnh phúc thành đoàn Nhân Duyên
Giúp cho phiền não sớm yên
Trợ mau giải thoát kế liền kiếp sau
Nếu trể chẳng gặp Phật nào
Nhằm kỳ Ðộc Giác làm sao cũng thành.

THẬP NGUYỆN

Nguyện cầu Tam - Bảo từ hằng độ,
Nguyện thoát ba tai nước, lửa, binh,
Nguyện thảy chúng sanh khỏi oan kết,
Nguyện cho nhân loại ráng tu hành
Nguyện gìn tam học Giới - Ðịnh - Tuệ
Nguyện đoạn Tham - Sân - Si độc sanh
Nguyện giải căn nhân Sanh Tử khổ
Nguyện diệt tâm tham háo lợi danh
Nguyện tu tinh tấn không giải đảy
Nguyện sao đạo quả sớm viên thành.

BÀI CẦU CHƯ THIÊN

Chí thành miệng vái tâm cầu
Chư Thiên lớn nhỏ bất câu bậc nào
Bốn tầng Sắc Giới rộng cao
Xin nghe hiểu biết hiện vào trợ duyên
Ðặng tâm sáng kiến phát liền
Biết nơi đáng sắp bày tuyên vừa người
Dầu ai cản sái luận dư
Chuyển lòng tinh tấn ngăn trừ sự lui
Chư Thiên Dục Giới hưởng vui
Vừa nghe cầu khẩn, tạm ngừng xét qua
Từ trời Tha Hóa cao xa
Ðến cung Ðạo Lợi bao la năm tầng
Giàu lòng bác ái thọ xưng
Thảy đều bố cáo chuyển luân sắp bày
Vị nào hoan hỷ cầu đây
Ra ân trợ giúp chẳng chầy mau xong;
Hiện nay tôi rất hết lòng
Mong cho Thiên Tướng oai phong Bốn Ngài
Thường luôn an lạc vui thay
Tránh xa khổ não hằng ngày tiến lên
Ðặng ngôi Nguyên Soái vững bền
Lòng từ ủng hộ các nền Giáo chân
Chẳng nài khó nhọc ra ân
Chúng tôi hữu sự có nhân nên cầu
Vì e công chuyện trể lâu
Làm cho nhiều kẻ hao sầu thân tâm
Nhờ Ngài xuống lịnh quyền thâm
Chư Thiên lòng tốt quang lâm giúp thành
Rất là ân trọng cao thanh
Chúng tôi hồi hướng phước lành kính dâng.
Chư Thiên lớn nhỏ các tầng
Tùy hỷ công đức đồng mừng trợ chuyên.

(Tỳ khưu SANTAKICCO dịch)

(DỨT PHẦN CẦU AN)

 -ooOoo-

KINH CẦU SIÊU

SAMVEJANĪYA GĀTHĀ - KỆ ÐỘNG TÂM

Nagāmadhammo nigamassa dhammo
nacāpiyaṃ ekakulassa dhammo
sabbassa lokassa sade vakassa
eseva dhammo yadidaṃ aniccatā.

Nghĩa:

Pháp nào có tên gọi là Vô Thường, là pháp có trạng thái thay đổi không thường, pháp ấy chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một xứ, chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một xóm, chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một gia tộc đâu, pháp ấy để chung cho nhân loại, súc sanh, luôn đến Chư Thiên, Ma Vương cùng Phạm Thiên cả thảy.

Nagāmadhammo nigamassa dhammo
nacāpiyaṃ ekakulassa dhammo
sabbassa lokassa sadevakassa
eseva dhammo yadidaṃ dukkhatā.

Nghĩa:

Pháp nào có tên gọi là Khổ Não, là pháp có trạng thái đau đớn buồn rầu, pháp ấy chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một xứ, chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một xóm, chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một gia tộc đâu, pháp ấy để chung cho nhân loại, súc sanh, luôn đến chư Thiên, Ma Vương cùng Phạm Thiên cả thảy.

Nagāmadhammo nigamassa dhammo
nacāpiyaṃ ekakulassa dhammo
sabbassa lokassa sadevakassa
eseva dhammo yadidaṃ anattatā.

Nghĩa:

Pháp nào có tên gọi là Vô Ngã, là pháp có trạng thái không phải là của ta, pháp ấy chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một xứ, chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một xóm, chẳng phải chỉ để riêng cho những người trong một gia tộc đâu, Pháp ấy để chung cho nhơn loại, súc sanh, luôn đến chư Thiên, Ma Vương cùng Phạm Thiên cả thảy.

Aciram vatayaṃ kāyo
paṭhaviṃ adhisessati
chuddho apetaviññano
niraṭṭhaṃ va kaliṅgaraṃ
(ba lần)

Nghĩa:

- Thân này chẳng tồn tại bao lâu đâu, khi tâm thức lìa bỏ rồi, thì nằm để trên mặt đất, như đống tro tàn, tìm sự lợi ích chẳng có.

Aayu usmā ca viññāṇaṃ
yadā kāyaṃ jahantimaṃ
apaviṭṭho tadā seti
niraṭṭhaṃ va kaliṅgaraṃ
(ba lần)

Nghĩa:

- Tuổi thọ, chất lửa, hoặc tâm thức, khi lìa bỏ thân này trong giờ nào rồi, (thân này không nên hoàn để trong nhà) (người đời) họ đem liệng bỏ nằm (trên mặt đất) trong giờ ấy, như đống tro tàn tìm sự lợi ích chẳng có.

Sabbe sattā marissanti
maranaṇtaṃ hi jīvitaṃ
yathākammaṃ gamissanti
puñña-pāpaphalū pagā
nirayaṃ pāpakammantā
puññakammā ca sugatiṃ
tasmā kareyya kalyāṇaṃ
nicayaṃ saṃ -parāyikaṃ
puññāni paralokasmiṃ
patiṭṭhā honti pāṇinaṃ .

Nghĩa:

- Tất cả chúng sanh chỉ sẵn dành để chịu chết đều nhau cả, vì sanh mạng (của tất cả chúng sanh) chỉ có sự chết là nơi cuối cùng.

Tất cả chúng sanh, đều phải chịu quả phước cùng quả tội, vừa theo cái nghiệp; của mình đã tạo rồi (đi thọ sanh trong kiếp sau, chúng sanh nào làm việc dữ, phải chịu khổ trong cõi địa ngục. Chúng sanh nào, làm việc lành, được thọ vui trong cõi thiên đàng. Cho nên (người đời) cần phải hối hả, làm việc phước đức, mà các bậc trí tuệ hằng thân thiết, cho đặng làm của để dành, dính theo trong đời vị lai (vì) các việc phước đức là nơi nương nhờ của tất cả chúng sanh trong ngày vị lai.

PATICCA SAMUPĀDA

Avijjā paccayā saṅkhārā
sankhārapaccayā viññānaṃ
viññānapaccayā nāma-rū paṃ
nāmarū papaccayā saḷāyatanaṃ
saḷāyatanapaccayā phasso
phassapaccayā vedanā
vedanāpaccayātanhā
tanhāpaccayā upādānaṃ
upādānapaccayābhavo
bhavapaccayā jāti
jātipaccayā jarāmaranaṃ

Sokaparidevadukkha domanassupāyāsā sambhavanti.
Evame tassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.

Avijjāya tveva asesa virāganirodhā saṅkhāranirodho.
Sankhāranirodhā viññānanirodho.
Viññānanirodhā nāmarū panirodho.
Nāmarū panirodhā saḷāyatananirodho.
Saḷāyatananirodhā phassanirodho.
Phassanirodhā vedanānirodho.
Vedanānirodhā taṅhānirodho.
Tanhānirodhā upādānanirodho
Upādānanirodhā bhavanirodho.
Bhavanirodhā jātinirodho.
Jātinirodhā jarāmaranaṃ .

Sokaparidevadukkha domanassupă-yāsā nirujjhanti.
Evame tassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hoti.

Nghĩa:

Các Pháp Hành phát khởi vì duyên vô minh.
Thức phát khởi vì duyên hành,
Danh sắc phát khởi vì duyên thức.
Lục nhập phát khởi vì duyên danh sắc.
Tiếp xúc phát khởi vì duyên lục nhập.
Thọ phát khởi vì duyên tiếp xúc.
Ái phát khởi vì duyên thọ.
Thủ phát khởi vì duyên ái.
Hữu phát khởi vì duyên thủ.
Sanh phát khởi vì duyên hữu.
Lão tử phát khởiduyên sanh.
Uất ức sanh tử biệt ly khổ, trái ý, bực bội, hằng phát khởi (cũng vì duyên sanh).

Tánh cách phát khởi những thống khổ ấy, lý do như thế.
Hẳn thật, tánh cách diệt hành, vì diệt tận vô minh do theo thánh đạo.

Tánh cách diệt thức vì diệt hành.
Tánh cách diệt danh sắc vì diệt thức.
Tánh cách vì diệt lục nhập vì diệt danh sắc.
Tánh cách diệt tiếp xúc vì diệt lục nhập.
Tánh cách diệt thọ vì diệt tiếp xúc.
Tánh cách diệt ái vì diệt thọ.
Tánh cách diệt thủ vì diệt ái.
Tánh cách diệt hữu vì diệt thủ.
Tánh cách diệt sanh vì diệt hữu.
Lão tử diệt, vì tánh cách diệt sanh.

Sự uất ức, sự sanh tử biệt ly khổ, sự trái ý, và sự bực bội trong tâm, cũng đều diệt, vì tánh cách sự diệt sanh.
Tánh cách diệt những thống khổ ấy, lý do như thế.

Aniccā vata saṅkhārā uppāda vayadhammino upajjitvā nirujjhanti tesaṃ .
Vū pasamo sukho. (ba lần)

Nghĩa:

- Các Pháp Hữu Vi thật không bền vững, nó có tánh sanh diệt là thường, vì nhơn sanh rồi diệt, diệt rồi sanh (nên thường hay có sự khổ não) chỉ có Niết BànPháp tịch diệt, dứt cả Pháp Hữu Vi ấy được, mới có sự an vui tuyệt đối. (ba lần)

CHÚC NGƯỜI MỚI QUY Y

Ngưỡng cầu Ðức Phật ban ơn
Ðộ người chánh kiến tầm chơn đạo thiền
Ngưỡng cầu Ðức Pháp vô biên
Ðộ người hữu chí cần chuyên đạo hành.
Ngưỡng cầu hai bậc Tăng lành
Ðộ người mộ đạo tâm thành quy y
Cầu xin Thiên chúng hộ trì
Giúp người giới luật luôn khi giữ tròn
Chúc cho bạn mới lòng son
Tu hành tinh tấn dạ mong Niết bàn
Thiện nam Tín nữ lưỡng ban
Xin cùng đồng đạo bạn vàng nhận thâu
Phước lành đào tạo bấy lâu
Ðồng xin hồi hướng nguyện cầu quả cao
Ðạo mầu gắng chí giồi trau
Thoát đường tội lỗi trần lao dứt lần
Tìm người trí thức xa gần
Gặp người đạo đức ân cần hỏi han
Ngày đêm tụ tập đoan trang
Công phu hành đạo tìm đường siêu sinh
Dọn thân khẩu ý trọn lành
Kịp thời thoát tục thực hành đạo cao
Tìm đường Bát chánh lần vào
Siêu phàm nhập Thánh tiêu dao Niết Bàn.

CỜ PHẬT GIÁO

Cờ Phật giáo nêu cao thanh bạch
Xanh vàng đỏ trắng gạch biểu dương
Sau chót còn thêm một đường
Năm sắc hiệp lại hiện trương sáu màu
Sáu màu ấy bởi đâu mà có
Do theo kinh tỏ rõ còn ghi
Tiền kiếp Thích Ca Mưu Ni
Hồi còn Bồ tát đương khi thực hành
Ba la mật tâm thành đại thí
hào quang rất quý của Ngài
Sáu màu kế tiếp sau đây
Sắc xanh móc mắt cho rày Bàn môn
Sắc vàng ấy kính tôn lóc thịt
Cho thợ rèn Ðế Thích hiện ra
Mạ vàng vào cốt Phật Ðà
lòng thành kính dám mà hy sinh
Sắc đỏ ấy vì tình mẫu tử
Móc gan ra do tự tay Ngài
Thuốc hòa cứu mẹ rất hay
Do loài rắn độc trể chầy đặng đâu
Lòng hiếu thảo ai hầu dám sánh
Ðức Ðại bi hình ảnh còn đây
Sắc trắng Bạch tượng cho rày
Nên cha hành phạt đày Ngài tha phương
Cùng non vợ lên đàng xa lánh
Vào con cao tuyết lãnh tu hành
Vợ thời hái trái non xanh

Còn Ngài bao quản nhọc nhằn khổ thân
Sắc gạch giống màu chơn chim Phụng
Thịt cho chằng sử dụng đập ăn
Vui lòng cứu sống mẫu thân
Ðành cam bỏ mạng nghĩa danh trọn gìn
Màu dợn sóng hiệp toan sáng rỡ
Bởi xưa kia kiếp Thỏ cũng vì
Thấy người đói khổ lâm nguy
Bố thí xác thịt cũng vì Bàn môn
Ðức Ðế Thích lắm cơn khích dụ
Ba la mật tròn đủ hầu Ngài
Thợ rèn kẻ khó cả hai
Do Ngài Ðế Thích đại tài hiện ra
Trong Tam giới đều hòa ca tụng
Khắp năm châu cung phụng kính thờ
Quốc tế nhìn nhận lá cờ
Tung hô Phật giáo đến giờ sùng hưng.

HỒI HƯỚNG PHƯỚC ÐẾN CHƯ THIÊN

Aakāsaṭṭhā ca bhummaṭṭhā
Devānāgā mahiddhikā
Puññaṃ no anumodantu
Ciraṃ rakkhantu

1. Sāsanaṃ
2. Raṭṭhake
3. Ñātayo
4. Pānino
5. No sadā.

Chư Thiên ngự trên hư không
Ðịa cầu thượng ngự rõ thông mọi điều
Long vương thần lực có nhiều
Ðồng xin hoan hỷ phước đều chúng tôi
Hộ trì Phật giáo Tăng bồi
Các bậc Thầy tổ an vui lâu dài
Quyến thuộc tránh khỏi nạn tai
Chúng sanh được hưởng phước dài bền lâu
Chúng tôi vui thú đạo mầu
Tu hành tinh tấn ngõ hầu siêu sinh. (lạy)

NĂM ÐIỀU QUÁN TƯỞNG

Thế Tôn lời dạy tỏ tường
Năm điều quán tưởng phải thường xét ra
Ta đây phải có sự già
Thế nào tránh thoát lúc qua canh tàn
Ta đây bịnh tật phải mang
Thế nào tránh thoát đặng an mạnh lành
Ta đây sự chết sẵn dành
Thế nào tránh thoát tử sanh đến kỳ
Ta đây phải chịu phân ly
Nhơn vật quý mến ta đi biệt mà
Ta đi với nghiệp của ta
Dầu cho tốt xấu tạo ra tự mình
Theo ta như bóng theo hình
Ta thọ quả báo phân minh kết thành.

KỆ TỤNG KHI NHIỄU PHẬT

Ca sa oai đức chi bằng
Sắc vàng thanh bạch của hàng Sa Môn
Noi gương từ phụ Thế Tôn
Hoằng khai giáo pháp tám muôn bốn ngàn
Ngày nay Thiện tín các hàng
Ca sa đại lễ nghiêm trang cử hành
Dâng y với tấm lòng thành
Ba vòng nhiễu Phật đồng thanh nguyện cầu
Chư Tăng hoan hỷ lãnh thâu
Căn lành gieo giống để hầu mai sau
Nguyện mau thoát khỏi trần lao
Tu hành tinh tấn tiêu dao đạo mầu
Chúc cho Phật pháp bền lâu
Thấm nhuần trăm họ năm châu thạnh hành
Chúc cho cả thảy chúng sanh,
Hồi đầu hướng thiện tâm thành quy y
Noi theo gương đấng Từ bi,
Xuất gia hành đạo mang y ngồi kề
Tu tâm dưỡng tánh mọi bề,
Tham sân đoạn tuyệt Bồ đề đến nơi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11644)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11970)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11358)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12074)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12570)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10774)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17994)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11736)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9959)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10181)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12360)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15355)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11253)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12118)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15379)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12011)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12421)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11194)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12096)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10625)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12564)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13178)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14849)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12698)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16586)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19677)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13116)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13536)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11962)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11645)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14529)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12625)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15670)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13633)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12912)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18025)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11176)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9087)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12188)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10321)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12204)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15324)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16616)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14279)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19714)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14160)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24620)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10700)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant